KHẢO SÁT ĐỘT BIẾN KHÁNG LAMIVUDINE CỦA HBV Ở BỆNH NHÂN VIÊM GAN B MÃN TÍNH TẠI THÀNH PHỐ CẦN THƠ NĂM 2010
Viêm gan B mạn tính đã trở thành gánh nặng trong cộng đồng: 2 tỷ người nhiêm HBV trên thế giới trong khi đó chỉ có 40 triệu người nhiêm HIV. Hằng năm có 1 triệu người chết do virus viêm gan B, 2800 người chết/ ngày, 115 người chết/giờ, nhiều người chết/phút vì ung thư gan nguyên phát và xơ gan(1, 2, 7, 8, 9, 12).
Tại Việt Nam ước tính có 7-14 triệu người nhiêm virus viêm gan B mạn tính, 15-20% bệnh nhân viêm gan B mạn tính có nguy cơ bị xơ gan và ung thư gan. Làm thế” nào để ngăn chặn tình trạng xơ gan và ung thư gan ở bệnh nhân viêm gan B mạn tính? Đây là một vấn đề khó khăn đặt ra cho các bác sĩ lâm sàng: Cần lựa chọn biện pháp điều trị thích hợp cho bệnh nhân. Và Lamivudine là thuốc đầu tay mà các y bác sĩ lựa chọn để điều trị bệnh viêm gan B mạn tính vì tính vượt trội về độ an toàn,
không tai biến dù điều trị lâu dài cho cả người lớn và trẻ em. Tuy nhiên, thời gian điều trị Lamivudine càng dài thì tình trạng kháng thuốc càng tăng. Những bệnh nhân kháng thuốc này có thể bộc phát HBV-DNA và tăng ALT trở lại, chức năng gan mất bù kể cả bị ung thư gan nguyên phát. Vì vậy, chúng ta cần nhanh chóng phát hiện ra các loại đột biến và các yếu tố liên quan đến đột biến kháng Lamivudine để có kế” hoạch điều trị thích hợp và nắm được dịch tê học kháng Lamivudine của bệnh nhân viêm gan B mãn tính. Vì vậy chúng tôi đề tài “Khảo sát đột biến kháng Lamivudine của HBV ở bệnh nhân viêm gan B mãn tính tại TP. Cần Thơ năm 2010” với mục tiêu:
1. Mô tả tỉ lệ và các kiểu đột biến gen kháng Lamivudine trên bệnh nhân đã điều trị Lamivudine một năm bằng kỹ thuật Realtime
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất