Khảo sát mô hình sinh sản ở Ba Vì, Việt Nam
Phát triển số lượng và chất lượng dân số và một trong những chiến lược ưu tiên hàng đầu của một quốc gia. Việc nghiên cứu đánh giá các mô hình sinh sản ở một khu vực, miền, hay cả đất nướclà hết sức quan trọng giúp cho các nhà hoạch định chính sách đưa ra các quyết sách phù hợp. Mục tiêu:mô tả mô hình sinh sản của phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ tại huyện Ba Vì – Hà Nội từ năm 1999 – 2007. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:theo dõi, đánh giá tình hình sinh sản của các hộ dân tại cơ sở thực địa dịch tễ học Ba Vì. Kết quả:mức sinh tổng thể (TFR) ổn định trong năm 1999 và ở mức 2,06 con/mẹ song từ năm 2001, mứcsinh này tăng dần từ 2,10 – 2,19 vào năm 2007; Tuổi bình quân của các bà mẹ sinh con đầu tiêntăng từ 23 vào năm 1999 lên 23,7 vào năm 2007. Kết luận:(1) Tuổi trung bình khi kết hôn lần đầu và sinh con lần đầu ở
những người phụ nữ Ba Vì tăng lên; (2) Pháp lệnh dân số năm 2003 đã khiến một số ngườidân hiểu nhầm hoặc cố tình hiểu nhầm chính sách kiểm soát mức sinh hiện hành nói chung.
Người dân Việt nam hiện nay không còn muốn có nhiều con như trước đây và sự mong muốn có được con trai cũng không còn nặng nề như trước đặc biệt là ở vùng đô thị. Xu hướng này cùng với chính sách 2 con cho mỗi gia đình được ban hànhnăm 1988 đã có đóng góp tích cực vào việc giảm nhanh tỷ lệ sinh từ 3,1% năm 1999 xuống 2,53% năm 1994 và 2,28% vào năm 1996 [1, 2]. Sau một thời gian dài thực thi nhiều chính sách khác nhau về vấn đề kế hoạch hóa gia đình trong đó quan trọng nhất là quy định mỗi gia đình chỉ có tối đa 2 con và khoảng cách giữa 2 lần sinh là 3 – 5 năm thì chương trình dân số của Việt nam đãcó nhiều tiến bộ. Tuy nhiên pháp lệnh dân số năm 2003 lại quy định “ Mỗi cặp vợ chồng có quyền quyết định về số con của mình và khoảng cáchgiữa các lần sinh” [5] đã gây nên sự hiểu lầm về chính sách dân số hiện hành dẫn tới sự gia tăng dân số trong những năm sau đó, tạo ra những sức ép về kinh tế và xă hội. Việc đưa các kỹ thuật chẩn đoán trước sinh vào Việt Nam là một trong những tiến bộ của kỹ thuật y học. Tuy nhiên, điều này cũng tạo nên những ảnh hưởng nhất định tới sự mất cân bằng về giới khi sinh. Bên cạnh đó, một số các yếu tố kinh tế xã hội cũng như phong tục tập quán cũng có những tác động nhất định đến tỷ lệ giới tính khi sinh cũng như tỷ lệ sinh.
Việc xem xét mô hình sinh sản trong một thời gian dài có thể giúp cho các nhà hoạch định chính sách có căn cứ để đưa ra các chính sách phù hợp liên quan đến vấn đề sinh sản. Chínhvì vậy đề tài nghiên cứu này nhằm mục tiêu:
Mô tả mô hình sinh sản của phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ tại huyện Ba Vì, Hà Nội từ năm 1999 đến năm 2007
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích