KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ D-DIMER TRÊN BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH PHÚ YÊN
KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ D-DIMER TRÊN BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH PHÚ YÊN
Nguyễn Tiến Dũng1,, Nguyễn Hoài Nam 1, Nguyễn Hoàng Đức
Đặt vấn đề: D-dimer là một sản phẩm thoái giáng cuối cùng của fibrin, được nổi lên như một xét nghiệm máu đơn giản có thể loại trừ bệnh huyết khối tĩnh mạch. Nồng độ D-dimer có nhiều ưu điểm hơn các thế hệ thrombin khác, bởi vì nó tồn tại trong in-vivo, tương đối ổn định và có thời gian bán hủy kéo dài. Nhồi máu não (NMN) cấp là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên thế giới. D-dimer có thể coi như một yếu tố dự báo và tiên lượng NMN cũng như đánh giá mức độ nghiêm trọng của NMN. Mục tiêu: Xác định nồng độ D-dimer ở bệnh nhân nhồi máu não cấp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên và các yếu tố liên quan. Đối tượng – phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, có so sánh với nhóm chứng. Chúng tôi nghiên cứu nồng độ D- dimer của 51 bệnh nhân trên 18 tuổi được chẩn đoán NMN cấp tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên từ tháng 10 năm 2021 đến tháng 8 năm 2022. Nhóm chứng, chúng tôi chọn ngẫu nhiên 30 người đang điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên. Xét nghiệm D-dimer được thực hiện ngay khi vào viện và sau 48 giờ bằng máy Coapresta 2000. Kết quả: Nồng độ D-dimer ở bệnh nhân NMN cấp cao hơn nhóm chứng (1338,4 ± 895,2 vs 335,8 ± 216,1 ng/ml), sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Dựa vào đường cong ROC thì điểm cắt giới hạn dự đoán NMN cấp trong nghiên cứu của chúng tôi là 764 ng/ml, có độ nhạy là 72,5%, độ đặc hiệu là 66,7%, vùng dưới đường cong là 0,919. Có mối tương quan thuận giữa giữa nồng độ D-dimer với thang điểm NIHSS (National Institutes of Health Stroke Scale) và thể tích tổn thương. Kết luận: Nồng độ D-dimer huyết tương tăng trong bệnh nhân NMN và có mối tương quan với mức độ nghiêm trọng của NMN được thể hiện qua thang điểm NIHSS và thể tích tổn thương.
D-dimer là một sản phẩm thoái giáng fibrin, là một mảnh protein nhỏ hiện diện trong máu sau khi một cục máu đông bị thoái biến bởi sự tiêu fibrin. D-dimer phản ánh nồng độ của các sản phẩm fibrin trong lòng mạch mà không liên quan đến fibrinogen và những sản phẩm thoái hóa fibrin hòa tan và khẳng định rằng sự hình thành thrombin và plasmin đã xảy ra. D-dimer đã được sử dụng rộng rãi trên lâm sàng như một chỉ số để phát hiện sự hình thành fibrin trong điều kiện có huyết khối. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về nồng độ D-dimer ở các khía cạnh khác nhau trong các bệnh lý huyết khối khác nhau. Ngày nay, nhồi máu não (NMN) vẫn còn là một vấn đề cấp thiết của y học vì không những bệnhnặng tỷ lệ tử vong cao mà còn để lại nhiều di chứng nặng nề, dẫn đến sự tàn phế cho bệnh nhân cũng như đòi hỏi có sự chăm sóc lâu dài. Ở giai đoạn cấp của NMN bên cạnh chẩn đoán hình ảnh hoặc khi chẩn đoán hình ảnh chưa rõ, việc định lượng D-dimer sẽ giúp hỗ trợ chẩn đoán, theo dõi và đặc biệt có giá trị tiên lượng bệnh nhân tốt hơn1. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm tìm hiểu đặc điểm D-dimer huyết tương và mối liên quan của chúng với thang điểm NIHSSvà thể tích tổn thương ởbệnh nhân NMN tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên.
Nguồn: https://luanvanyhoc.com