Khảo sát nồng độ rifampicin, isoniazid, pyrazinamid trong huyết tương tại thời điểm 2h sau khi uống thuốc ở bệnh nhân lao phổi và lao màng phổi

Khảo sát nồng độ rifampicin, isoniazid, pyrazinamid trong huyết tương tại thời điểm 2h sau khi uống thuốc ở bệnh nhân lao phổi và lao màng phổi

Mục tiêu:khảo sát nồng độ rifampicin, isoniazid, pyrazinamid huyết tương tại thời điểm 2h sau khi uống thuốc ở bệnh nhân lao phổi và lao màng phổi.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:định lượng nồng độ rifampicin, isoniazid, pyrazinamid trong huyết tương168 bệnh nhân lao phổi và lao màng phổi ở thời điểm 2h sau khi uống. Định lượng bằng nồng độ thuốc bằngphương pháp HPLC. Xác định tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ rifampicin, isoniasid, pyrazinamid huyết tương dưới nồng độ điều trị.  Kết quả:có sự khác biệt rất lớn về nồng độ rifampicin, isoniazid, pyrazinamid đo được ở cùng thời điểm sau khi uống giữa các bệnh nhân lao. Nồng độ trung bình rifampicin 6,13 ± 4,66 mg/ml, isoniazid 2,99  ± 1,94mg/ml, pyrazinamid 38,98 ± 18,39 mg/ml. Không có sự khác biệt về nồng độ giữa nhóm bệnh nhân lao phổi và nhóm lao màng phổi. Tỷ lệ bệnh nhân có nồng độ dưới phạm  vi  điều  trị  đối  với  từng  thuốc  là  rifampicin76,83%,  isoniazid  51,85%;  pyrazinamid  10,13%.  Nồng  độ pyrazinamid huyết tương lớn hơn nồng độ điều trị chiếm 12,03% bệnh nhân.  Kết  luận:nồng độ rifampicin, isoniazid, pyrazinamid huyết tương có sự khác biệt lớn giữa các bệnh nhân. Nồng độ INH vàRMP thấp hơn nồng độ điều trị chiếm tỷ lệ cao. Việc giámsát nồng độ thuốc chống lao trong huyết tương nhằm hiệu chỉnh liều điều trị là cần thiết, đặc biệt đối với bệnh nhân đáp ứng kém với hóa trị liệu

Nghiên cứu nồng độ thuốc trong huyết tương là một  trong  các  nội  dung  của  Dược  động  học  ứngdụng. Nồng độ thuốc trong huyết tương liên quan đến sinh khả dụng của thuốc trong chế phẩm cũng như  liều  điều  trị  và  yếu  tố  cơ  địa,  bệnh  lý  của bệnh nhân. Trong điều trị các bệnh nhiễm trùngnói chung và điều trị bệnh lao nói riêng, nồngđộ thuốc trong huyết tương có vai trò quan trọng đểtiêu diệt vi khuẩn trong tổn thương. Xác định được nồng độ thuốc là một trong các chỉ số dược động học quan trọng để xác định liều điều trị cho bệnh nhân đã phù hợp hay chưa, nhằm tối ưu hóa chỉ định điều trị cho bệnh nhân. 

Các  thuốc  chống  lao  rifampicin  (RMP), isoniazid  (INH),  pyrazinamid  (PZA)  là  các  thuốc chống  lao  thiết  yếu,  được  dùng  theo  đường  uống trong dạng chế phẩm đơn lẻ hoặc phối hợp nhiều thành  phần.  Trong  các  nghiên  cứu  trước  đây, chúng tôi đã đề cập đến các kết quả nghiên cứu đầu tiên tại Việt Nam về nồng độ rifampicin trong huyết tương bệnh nhân lao [1]. Một số nghiên cứu trên  thế  giới  cho  thấy  nồng  độ  thuốc  chống  lao trong huyết tương với liều điều trị hàng ngày có tỷ lệ đáng kể bệnh nhân có nồng độ dưới phạmvi điều trị, nhất là đối với RMP, INH.[3, 4, 6, 8,  9, 11,  12]  Trong  khi  giám  sát  nồng  độ  thuốc  trong huyết tương để hiệu chỉnh liều điều trị đã được áp dụng đối với nhiều thuốc nhưng với thuốc chống lao lại ít được áp dụng. Với liều điều trị được chỉ định hiện nay liệu nồng độ thuốc đạt được trong huyết  tương  bệnh  nhân  có  phù  hợp  với  nồng  độ điều trị hay không? 

Những vấn đề đề cập trên là lý do chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục tiêu:

Khảo sát nồng độ RMP, INH, PZA trong huyết tương  bệnh  nhân  lao  phổi  và  lao  màng  phổi  ở thời điểm 2h sau khi uống.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment