KHẢO SÁT TẦN SUẤT VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN CƯƠNG TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
KHẢO SÁT TẦN SUẤT VÀ NHU CẦU ĐIỀU TRỊ RỐI LOẠN CƯƠNG TRÊN BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
Phạm Nam Việt*, Vũ Hồng Thịnh
TÓM TẮT
Mục đích: Khảo sáttầnsuất và nhucầuđiêutrịrối loạncương (RLC)trênbệnh nhânđáitháo đường
(ĐTĐ) típ 2.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang, thực hiện từ tháng 5/2009-5/2010, khảo sát 350 bệnh nhân nam ĐTĐ típ 2 đang điêu trị ngoại trú tại phòng khám nội tiết Bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM. RLC được đánh giá bằng bảng IIEF-5. Nhu cầu điêu trị RLC được đánh giá qua phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi. Thống kê bằng phần mêm Stata 10.0.
Kết quả: Tân suất RLC ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 là 64,28 % (n=350) (KTC 95%: 59,28% – 69,28%), trong đó RLC nhẹ 10%; RLC nhẹ-TB 12,57%; RLC TB 16,85%; RLC nặng 24,86%. Tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2 càng cao ở những bệnh nhân tuổi càng cao, thời gian bị ĐTĐ càng lâu, không kiểm soát tốt đường huyết và có biến chứng của ĐTĐ. Trong những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị RLC, 74,22% có nhu cầu điêu trị RLC.
Kết luận: RLC gặp sớm và nhiêu ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với tỉ lệ cao bệnh nhân bị RLC mức độ nặng. Hơn 2/3 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với RLC có nhu cầu điêu trị RLC.
MỞ ĐẦU
Rối loạn cương (RLC) là tình trạng người đàn ông không thể đạt tới hay duy trì được sự cương dương vật đủ cứng để giao hợp thỏa mãn(12,21). RLC là một bệnh lý thường gặp, nghiên cứu Massachusetts trên nam giới lớn tuổi (MMAS) được tiến hành trên 1290 đàn ông tuổi từ 40-70 ở Hoa Kỳ, ghi nhận 52% có RLC ở một mức độ nào đó(8). Tại Việt Nam tần suất RLC khoảng 15,7%(21). RLC thường đi kèm và là biến chứng của những bệnh mạn tính như đái tháo đường (ĐTĐ), bệnh tim mạch, suy thận mạn và bệnh thần kinh(14).
ĐTĐ là rối loạn nội tiết thường kết hợp với RLC nhất và RLC là biến chứng thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ do biến chứng mạch máu và bệnh thần kinh(16). Nhiều nghiên cứu trên thế giới cho thấy tần suất RLC ở bệnh nhân ĐTĐ cao hơn trong dân số nam giới chung, nhưng kết quả rất thay đổi từ 20-90%(3,57,1521).
Người bệnh RLC thường giấu bệnh, ngại đi khám bệnh và ngại khai bệnh với thầy thuốc(21). Ngay cả ở Hoa Kỳ, trong một nghiên cứu có 74% bệnh nhân không khai bệnh RLC khi họ đi khám bệnh về niệu khoa vì cảm thấy bối rối, 82% bệnh nhân rất muốn bác sĩ của họ hỏi hoặc đề cập tới vấn đề RLC của họ(2).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung khảo sát những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết bệnh viện Đại Học Y Dược TP.HCM nhằm vào hai mục tiêu:
Xác định tần suất RLC trên bệnh nhân ĐTĐ típ 2.
Khảo sát tỉ lệ bệnh nhân có nhu cầu điều trị RLC trong số những bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có RLC.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân nam được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 đang điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết bệnh viện Đại Học Y dược TP.HCM.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
-Bệnh nhân nam độ tuổi 25-75, đã có vợ.
– Đã được chẩn đoán ĐTĐ típ 2, đang điều trị ngoại trú, hồ sơ điều trị ngoại trú có ghi nhận đầy đủ thông tin về chẩn đoán, kết quả gần nhất của đường huyết khi đói, HbA1c, các thuốc đang sử dụng, các biến chứng nếu có.
– Còn hoạt động tình dục trong 6 tháng trước khảo sát.
-Đồng ý trả lời khảo sát.
Tiêu chuẩn loại trừ
-Không đồng ý tham gia trả lời.
-Không có hoạt động tình dục trong vòng 6 tháng trước khảo sát.
-Đang có những bệnh nặng như nhồi máu cơ tim, suy tim nặng, tai biến mạch máu não chưa ổn định, yếu liệt nặng, lao phổi tiến triển, nhiêm khuẩn cấp tính, suy hô hấp.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất