KHẢO SÁT TÌNH HÌNH VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG II NĂM 2004
KHẢO SÁT TÌNH HÌNH VIÊM TIỂU PHẾ QUẢN TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG II NĂM 2004
Đặng Thị Kim Huyên*
TÓM TẮT
Tổng quan: Hiện nay, chẩn đoán VTPQ chủ yếu dựa vào lâm sàng và điều trị chỉ là điều trị nâng đỡ. Vì vậy, việc tiếp cận chẩn đoán và các phương pháp điều trị tối ưu vẫn còn nhiều bàn cãi.
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm về dịch tễ học, lâm sàng, CLS và điều trị VTPQ tại BV NĐII năm 2004. Nhận xét về chẩn đoán, chỉ định sử dụng KS, thuốc dãn phế quản, kháng viêm.
Phương pháp:Nghiên cứu hồi cứu, mô tả hàng loạt ca.Tất cả trẻ được chẩn đoán lúc ra viện VTPQ nhập BV NĐII từ 1/1/2004 – 31/12/2004.Mẫu nghiên cứu 1114 trẻ VTPQ.
Kết quả:Trong 1114 trẻ VTPQ, chúng tôi rút ra được: VTPQ thường tập trung vào những tháng cuối năm (8,9,10,11). Mắc bệnh chủ yếu là trẻ 1-7 tháng tuổi, nam> nữ. Khò khè là dấu hiệu nổi bật thường gặp khi khám trẻ VTPQ 90.75%. Triệu chứng thở co lõm ngực (57.9%). Các ran ở phổi thường nghe được là ran ngáy ẩm, tỉ lệ ran nổ thấp nhưng vẫn có. BCĐNTT > 6000 chiếm (20.2%). Hình ảnh phổi có bội nhiễm trên Xquang 5.12%. Sử dụng KS (77.7%), sử dụng thuốc dãn PQ (78.8%). Sự thống nhất chẩn đoán giữa các khoa không cao chỉ số Kappa 0.2304 (p<0.001).Việc đánh giá đúng VTPQ bội nhiễm và chỉ định dùng KS đúng (62.21%). Thời gian nằm viện trung bình 6.79 ngày.
Kết luận: Tỉ lệ sử dụng KS vẫn khá cao trong điều trị VTPQ và chứng cớ bội nhiễm chiếm tỉ lệ thấp. Sự thống nhất chẩn đoán giữa các khoa không cao
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất