KHẢO SÁT TỶ LỆ CÁC DẠNG BÓNG KHÍ CUỐN MŨI GIỮA TRÊN CT SCAN Ở BỆNH NHÂN VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH

KHẢO SÁT TỶ LỆ CÁC DẠNG BÓNG KHÍ CUỐN MŨI GIỮA TRÊN CT SCAN Ở BỆNH NHÂN VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH

KHẢO SÁT TỶ LỆ CÁC DẠNG BÓNG KHÍ CUỐN MŨI GIỮA TRÊN CT SCAN Ở BỆNH NHÂN VIÊM MŨI XOANG MẠN TÍNH

Phan Xuân Hoa*, Phan Thị Mộng Thơ*, Nguyễn Thị Nga*

TÓM TẮT :
Mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ các dạng bóng khí cuốn mũi giữa trên CT scanner ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn tính.
Đối tượng-Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu mô tả 94 ca (188 cuốn mũi giữa) từ 19-81 tuổi với chẩn đoán viêm mũi xoang mạn tính được nhập khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương trong thời gian từ tháng 8/2013 đến tháng 6/2014.
Kết quả: + Tỷ lệ bóng khí cuốn mũi giữa ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn tính: Trong tổng số 94 ca nghiên cứu, bệnh nhân nam là 45 ca (47,9%), nữ là 49 ca (52,1%). Số ca có bóng khí cuốn mũi giữa là 42 ca (chiếm tỷ lệ 44,7%), số ca không có bóng khí cuốn mũi giữa là 52 ca (chiếm tỷ lệ 55,3%). Số ca có bóng khí cuốn mũi giữa hai bên là 26 ca (27,7%); một bên trái là 10 ca (10.6%); một bên phải là 6 ca (6,4%). Nếu xét theo từng bên phải hay trái, kết quả cho thấy:(P): số ca có bóng khí cuốn mũi giữa là 32, chiếm tỷ lệ 34%. Số ca không có bóng khí cuốn mũi giữa là 62, chiếm tỷ lệ 66%.(T): số ca có bóng khí cuốn mũi giữa là 36, chiếm tỷ lệ 38.3%. Số ca không có bóng khí cuốn mũi giữa là 58, chiếm tỷ lệ 61,7%. Tỷ lệ bóng khí cuốn mũi giữa bên (T) cao hơn bên (P) (38,1% so với 34%), tuy nhiên không tìm thấy cóý nghĩa về mặt thống kê (p>0,05).+ Tỷ lệ các dạng bóng khí cuốn mũi giữa ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn tính: Cả hai bên cuốn mũi giữa (P) và (T): dạng mảnh là 45 ca chiếm tỷ lệ cao nhất 23,9%, sau đóđến dạng hỗn hợp là 13 ca chiếm tỷ lệ 6.9% vàdạng bóng là 10 ca chiếm tỷ lệ 5,3%. Tính từng bên P và T cho kết quả như sau: Cuốn mũi giữa (P): dạng mảnh chiếm tỷ lệ cao nhất là 22 ca.3,4%), dạng hỗn hợp là 7 ca (7,4%), dạng bóng là 3 ca (3,2%). Cuốn mũi giữa (T): dạng mảnh chiếm tỷ lệ cao nhất là 23 ca (24,5%), dạng bóng 7 ca (7,4%), dạng hỗn hợp là 6 ca (6,4%). Sự khác biệt giữa các dạng bóng khí cuốn mũi giữa bên (P) và (T) không tìm thấy cóý nghĩa thống kê (p>0,05). + Mối liên quan giữa các dạng bóng khí cuốn mũi giữa với tình trạng viêm xoang: Dạng hỗn hợp cho tỷ lệ viêm xoang hàm và xoang trán cao hơn so với hai dạng còn lại (p>0,05) và cho tỷ lệ viêm xoang sàng sau bên phải cao hơn so với hai dạng còn lại (p<0,05), dạng mảnh cho tỷ lệ tắc phức hợp lỗ thông khe cao hơn so với hai dạng còn lại (bên T: p<0,05).
Kết luận: Số ca có bóng khí cuốn mũi giữa chiếm tỷ lệ khá cao ở bệnh nhân viêm mũi xoang mạn tính, bóng khí có thể ở 1 bên hoặc 2 bên. Trong các dạng bóng khí cuốn mũi giữa: dạng mảnh, dạng bóng, dạng hỗn hợp thì dạng hổn hợp chiếm tỷ lệ cao nhất. Khi khảo sát thêm về mối liên quan giữa các dạng bóng khí cuốn mũi giữa và tình trạng viêm xoang ghi nhận dạng hỗn hợp cho tỷ lệ viêm xoang hàm, xoang sàng và xoang trán cao hơn so với 2 dạng còn lại, dạng mảnh cho tỷ lệ tắc phức hợp lỗ thông khe cao hơn so với 2 dạng còn lại.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment