KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA ĐIỆN VÕNG MẠC VÀ ĐIỆN THẾ GỢI THỊ GIÁC TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH LÝ THẦN KINH THỊ

KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA ĐIỆN VÕNG MẠC VÀ ĐIỆN THẾ GỢI THỊ GIÁC TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH LÝ THẦN KINH THỊ

 KHẢO SÁT VAI TRÒ CỦA ĐIỆN VÕNG MẠC VÀ ĐIỆN THẾ GỢI THỊ GIÁC TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH LÝ THẦN KINH THỊ

Lê Dương Thùy Linh, Lê Minh Thông
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Đánh giá vai trò của điện võng mạc hình mẫu (PERG) và điện thế gợi thị giác (VEP) trong chẩn đoán phân biệt bệnh thiếu máu thần kinh thị trước không do viêm động mạch (NAION) và bệnh viêm thần kinh thị (ON). 
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu thực hiện trên 60 bệnh nhân được chẩn đoán NAION (30 bệnh nhân) và ON (30 bệnh nhân). Mỗi bệnh nhân đều được khám mắt có hệ thống, được đo PERG và VEP. Nhóm chứng được chọn từ 30 người bình thường là nhân viên y tế, đo PERG và VEP. 
Kết quả: Ở nhóm NAION, trung bình biên độ N95 PERG (±SD) (1,46 ± 0,61µv) và tỉ lệ biên độ N95/P50 (0,99 ± 0,42) ở mắt bệnh giảm có ý nghĩa so với nhóm chứng và mắt lành. Ở nhóm ON, thời gian tiềm ẩn P50 kéo dài ở mắt bệnh so với nhóm chứng và mắt lành (56,73 ± 2,88ms so với 53,23 ± 2,01ms và 53,50 ± 2,74ms). Độ nhạy và độ chuyên của biên độ PERG cao hơn của biên độ VEP (93% và 90% so với 80% và 80%). Độ nhạy và độ chuyên của thời gian tiềm ẩn VEP cao hơn của thời gian tiềm ẩn PERG (84.6% và 88.2% so với 70% và 80%). 
Kết luận: Biên độ N95 PERG giảm đáng kể ở nhóm NAION, trong khi đó thời gian tiềm ẩn P50 kéo dài có ý nghĩa ở nhóm ON. Biên độ PERG đặc hiệu hơn biên độ VEP và thời gian tiềm ẩn VEP nhạy và ổn định hơn thời gian tiềm ẩn PERG.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment