Khẩu phần ăn và thay đổi cân nặng của phụ nữ mang thai tại hai xã Hùng Mỹ, Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa – Tuyên Quang

Khẩu phần ăn và thay đổi cân nặng của phụ nữ mang thai tại hai xã Hùng Mỹ, Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa – Tuyên Quang

Tỷ lệ tử vong mẹ đang giảm tại các nước có thu nhập trung bình nhưng vẫn cao ở các nước có thu nhập thấp [9]. Ở Việt Nam, theo thống kê năm 2002 tính trên cả nước tỷ lệ tử vong mẹ là 165/100.000 ca sinh sống, trong đó vùng núi phía Bắc cao gấp 4 lần so với miền xuôi [1]. Vì vậy, cải thiện sức khỏe bà mẹ là 1 trong 8 mục tiêu  phát  triển  thiên  niên  kỷ  được  Liên  hợp Quốc thông qua, trong đó có vấn đề chăm sóc dinh dưỡng cho phụ nữ mang thai (PNMT). Trong những năm gần đây, khẩu phần ăn của nhân dân nói chung và của PNMT nói riêng đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Ngay tại đồng bằng Bắc bộ, tỷ lệ thiếu năng lượng  trường  diễn  của  bà  mẹ  còn  khá  cao (25,6%) [1]. Nghiên cứu của Phạm Duy Tường (2002) cho thấy ngay tại quận Đống Đa, Hà Nội sự tăng cân của phụ nữ trong quá trình mang thai còn thấp, chỉ đạt 8,3kg [8]. Chiêm Hóa là một huyện miền núi thuộc tỉnh Tuyên Quang với hơn 80% đồng bào là dân tộc thiểu số; điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn; những nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn của PNMT ở đây chưa nhiều. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm mục tiêu:

1. Đánh giá khẩu phần ăn của phụ nữ mang thai tại 2 xã Hùng Mỹ, Xuân  Quang,  huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang.

2. Đánh giá sự thay đổi cân nặng của phụ nữ trong thời gian mang thai.

II. ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU

1. Đối tượng nghiên cứu: các phụ nữ đang mang thai.

2. Phương pháp, thời gian nghiên cứu:  sử dụng  thiết  kế  nghiên  cứu  cắt  ngang  tại  thời điểm tháng 8 năm 2009.

Cỡ mẫu, cách chọn mẫu: chọn chủ đích huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang. Hai xã Hùng Mỹ và Xuân Quang được chọn ngẫu nhiên từ 29 xã của huyện. Theo số đăng ký thai sản của địa phương, toàn bộ 60 phụ nữ đang có thai trong thời điểm điều tra được đưa vào nghiên cứu.

Các biến số và phương pháp thu thập số liệu

Khẩu  phần:  được  thu  thập  bằng  “Phương pháp hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua” sau đó quy đổi mức tiêu thụ lương thực thực phẩm theo Hướng dẫn của Viện Dinh dưỡng; sử dụng Bảng thành phần thực phẩm Việt Nam 2007 để xác định các chất dinh duỡng: năng lượng, protid, lipid, glucid, vitamin và khoáng [2].

Các chỉ số  nhân  trắc: chiều cao được đo bằng thước Microtoire với độ chính xác 0,1cm. Cân nặng: hỏi cân nặng phụ nữ trước lúc có thai. Sử dụng cân Seca điện tử với độ chính xác 0,1kg để thu thập cân nặng hiện tại.

Xử lý số liệu: số liệu được xử lý bằng phần mềm EPI – Info 6.04 và so sánh với Nhu cầu khuyến nghị (NCKN).

Những năm gần đây, khẩu phần ăn của phụ nữ mang thai (PNMT) đã được cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Tỷ lệ thiếu năng lượng trường diễn của bà mẹ còn khá cao. Mục tiêu: (1) Đánh giá khẩu phần ăn của PNMT tại 2 xã Hùng Mỹ, Xuân Quang, huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang. (2) Đánh giá sự thay đổi cân nặng của phụ nữ trong thời gian mang thai. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bà mẹ đang có thai được đưa vào nghiên cứu theo phương pháp cắt ngang mô tả. Kết quả và kết luận: khẩu phần ăn còn thiếu về số lượng và chưa cân đối về chất lượng. So với nhu cầu khuyến nghị: sắt chỉ đạt 33,8%, canxi đạt 45,5%, vitamin A đạt 81,4%; năng lượng khẩu phần ở từng giai đoạn chỉ đạt 75% – 89%, trong đó lượng lipid chỉ đạt hơn 40%, đặc biệt ở 3 tháng cuối; tỷ lệ lipid thực vật/ tổng số 25,4%. Tỷ lệ Pr: L: G chưa cân đối (15,0: 13,8: 71,2). Mức tăng cân đều thấp ở các thời kỳ: 3 tháng đầu giảm 0,2 kg; 3 tháng giữa tăng 2,2 kg và 3 tháng cuối tăng 4,2 kg.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment