KHOẢNG CÁCH TỪ LỒI CỦ CHÀY TỚI RÃNH RÒNG RỌC ĐÙI TRÊN CT-SCAN Ở NGƯỜI VIỆT NAM

KHOẢNG CÁCH TỪ LỒI CỦ CHÀY TỚI RÃNH RÒNG RỌC ĐÙI TRÊN CT-SCAN Ở NGƯỜI VIỆT NAM

KHOẢNG CÁCH TỪ LỒI CỦ CHÀY TỚI RÃNH RÒNG RỌC ĐÙI TRÊN CT-SCAN Ở NGƯỜI VIỆT NAM
Hoàng Văn Tài1, Hoàng Đức Thái1
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Trật khớp chè-đùi là một tổn thương vùng gối tương đối thường gặp, các bệnh nhân trật khớp chè-đùi có nguy cơ tái trật cao nếu có các bất thường giải phẫu đi kèm ở vùng gối. Khoảng cách lồi củ chày tới rãnh ròng rọc đùi (Tibial tuberosity-trochlear groove distance – TT-TG) là một yếu tố không chỉ giúp chẩn đoán nguy cơ tái trật mà còn là mục tiêu cho các phẫu thuật tái cấu trúc phần xa khớp chè-đùi. Các nghiên cứu đã cho thấy giá trị bình thường TT-TG thay đổi theo chủng tộc tuy nhiên giá trị mục tiêu TT-TG bình thường hiện nay được xác định dựa trên người phương Tây. Chính vì vậy việc xác định giá trị bình thường TT-TG ở người Việt Nam là cần thiết.

Mục tiêu: Xác định khoảng cách lồi củ chày tới rãnh ròng rọc đùi bình thường ở người Việt Nam trưởng thành và mối tương quan giữa TT-TG với kích thước mâm chày dựa trên CT-Scan khớp gối.

Đối tượng và phương pháp: Khảo sát 114 phim CT-Scan gối (64 nam giới và 50 nữ giới). Đo TT-TG và kích thước trong ngoài mâm chày lớn nhất (Maximal mediolateral-MML) trên mặt phẳng ngang. Sau đó tính tỉ số của TT-TG chia cho MML (modified TT–TG distance – mTT-TG).

Kết quả: Có 57 người tham gia nghiên cứu (32 nam và 25 nữ) với độ tuổi trung bình toàn mẫu là 45,4. Số đo TT-TG trung bình là 12,8±2,2 mm trên toàn mẫu, ở nam giới là 13,2±2,4mm lớn hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nữ giới là 12,3±1,9 mm. Số đo MML trung bình là 71,6±5,4mm trên toàn mẫu, ở nam giới là 75,4±3,4 mm lớn hơn có ý nghĩa thống kê (p <0,05) so với nữ giới là 66,8±3,3mm. Số đo mTT-TG trung bình là 0,18±0,03 trên toàn mẫu, ở nam giới là 0,18±0,03 và nữ giới là 0,19±0,03, sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Có mối tương quan thuận (r=0,31) giữa TT-TG với MML.

Kết luận: TT-TG trung bình ở người Việt Nam trưởng thành là 12,8±2,2mm, trong đó nam giới lớn hơn so với nữ giới và TT-TG tương quan thuận với MML.

Mảnh ghép tự thân lấy từ một phần gân bánh chè, gân khối gân cơ chân ngỗng, gân cơ tứ đầu đùi (QT) được khẳng định có nhiều ưu điểm vượt trội(1). Hiện nay, đã có nhiều tác giả nghiêncứu sử dụng mảnh ghép lấy từ một phần QT để tái tạo lại dây chằng chéo trước (ACL) với những ưu điểm như cách lấy nhanh chóng, có thể lấy kèm hoặc không kèm mẩu xương. QT to và chắc nên khi lấy đi một phần cũng ít gây ảnh hưởng đến độ chắc của phần cơ tứ đầu đùi còn lại. Loại vật liệu này đang rất phổ biến để tái tạo lại dây chằng chéo trước(2). Tuy nhiên việc nghiên cứu về giải phẫu QT, cũng như ứng dụng để hỗ trợ cho công tác điều trị lại chưa được nghiên cứu ở nước ta. Trước thực tiễn đó, chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm nghiên cứu về giải phẫu QT, từ đó đưa ra những ứng dụng lâm sàng cho việc lấy gân được tốt nhất.

KHOẢNG CÁCH TỪ LỒI CỦ CHÀY TỚI RÃNH RÒNG RỌC ĐÙI TRÊN CT-SCAN Ở NGƯỜI VIỆT NAM

Leave a Comment