Kiến thức của nhân viên y tế tuyến cơ sở về nhiễm khuẩn đường sinh sản

Kiến thức của nhân viên y tế tuyến cơ sở về nhiễm khuẩn đường sinh sản

Nhiễm khuẩn đường sinh sản (Reproductive Tract Infections – RTI) tương đối phổ biến tại Việt Nam. Kiến thức của nhân viên y tế (NVYT) ở tuyến y tế cơ sở đóng vai trò rất quan trọng trong công tác phòng chống và ngăn ngừa các biến chứng của RTI. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mô tả thực trạng kiến thức về RTI của NVYT tại huyện Ba Vì, Hà Nội. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hầu hết các NVYT chỉ biết đến một số ít bệnh, triệu chứng, nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ, hay các biến chứng thông thường của RTI. Số cán bộ đã từng được tập huấn về RTI còn rất hạn chế. Kiến thức toàn diện của NVYT huyện Ba Vì về RTI còn ở mức độ thấp. Do vậy, các hoạt động can thiệp nâng cao kiến thức về RTI cho NVYT tại tuyến y tế cơ sở là rất cần thiết giúp chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời đề phòng các biến chứng của RTI.

Nhiễm khuẩn đường sinh sản (Reproductive Tract Infections – RTI) bao gồm ba nhóm bệnh: các bệnh lây truyền qua đường tình dục (Sexually Transmitted Infec­tions – STI); các nhiễm khuẩn nội sinh như viêm âm đạo vi khuẩn (Bacterial Vaginosis – BV), viêm âm đạo do nấm candida; và nhiễm khuẩn do các thủ thuật y tế. Nếu không được phát hiện và điều trị sớm, RTI sẽ ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và khả năng lao động của bệnh nhân. Đặc biệt ở phụ nữ và trẻ sơ sinh, RTI có thể gây các hậu quả nặng nề như: bệnh viêm tiểu khung, vô sinh, chửa ngoài dạ con, ung thư cổ tử cung, chết chu sinh, nhiễm khuẩn mắt gây mù ở trẻ sơ sinh [1]. Ngoài ra, RTI đặc biệt là STI còn làm tăng khả năng nhiễm HIV [2, 3]. Vì vậy, việc phòng chống RTI cũng góp phần rất tích cực và quan trọng vào phòng chống HIV/AIDS.

Ở nước ta, các nghiên cứu, điều tra tại bệnh viện hoặc cộng đồng ở những địa phương khác nhau cho thấy phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ mắc RTI là khá phổ biến [4 – 7]. Trong khi rất nhiều phụ nữ mắc bệnh mà không có triệu chứng [7], triệu chứng nghèo124 nàn hoặc ngại dư luận xã hội và gia đình đã không tìm đến các cơ sở y tế (CSYT) sớm nên không được điều trị kịp thời.

Cho đến nay, vấn đề phòng chống và hạn chế biến chứng của RTI đang được chú trọng trong công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu nói chung và công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản nói riêng của ngành y tế. Từ trước tới nay đã có nhiều nghiên cứu về RTI trong cộng đồng nhưng các nghiên cứu về hiểu biết của NVYT về RTI còn hạn chế. Đề tài này được tiến hành với mục tiêu mô tả thực trạng kiến thức về RTI của NVYT công tác tại huyện Ba Vì, Hà Nội

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment