KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA VIÊM GAN SIÊU VI B CỦAHỌC SINH NGÀNH DƯỢC NĂM NHẤT TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ TIỀN GIANG NĂM 2014

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA VIÊM GAN SIÊU VI B CỦAHỌC SINH NGÀNH DƯỢC NĂM NHẤT TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ TIỀN GIANG NĂM 2014

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG NGỪA VIÊM GAN SIÊU VI B CỦAHỌC SINH NGÀNH DƯỢC NĂM NHẤT TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ TIỀN GIANG NĂM 2014
PHAN KIM HUỲNH
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm gan siêu vi là  một  nhóm  bệnh  truyền  nhiễm  rất  phổ  biến  và  nguy hiểm. Bệnh thường gặp ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam [1][11][15]. Dựa vào virus học, dịch tễ học và lâm sàng học người ta chia ra làm 7 loại viêm gan siêu vi A, B, C, D, E, G và TTV,  trong đó viêm gan siêu vi B (VGSV B) do Hepatitis B virus (HBV) gây ra là nhiễm trùng thông thường và lây lan mạnh nhất ở người và là vấn đề nổi cộm của ngành y tế [1] [11] [15]. Đến nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh VGSV B. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới ( TCYTTG), có khoảng 02 tỷ người nhiễm virus siêu vi B (VGB) [31] [32]. Trong đó, 350 triệu người mang virus mạn tính (HbsAg). Những người mang virus VGB mạn tính là nguồn lây nhiễm nguy hiểm trong cộng đồng và có nguy cơ cao mắc các bệnh gan nguy hiểm liên quan đến nhiễm virus VGB [9] [11] [12]. Hàng năm ước tính có khoảng 02 triệu người mang virus VGB mạn tính  tử vong do hậu quả suy gan cấp, xơ gan, ung thư gan. Có đến 90% trẻ sơ sinh, 25 – 50% trẻ từ 1 – 5 tuổi và  5 – 10% người lớn bị nhiễm virus VGB trở thành người mang virus mạn tính [7] [13].
Cũng theo TCYTTG, các nước khu vực Đông Nam Á có tỉ lệ lưu hành VGSVB cao nhất thế giới với số người nhiễm virus VGB mạn tính vào khoảng 130 triệu và lứa tuổi bị nhiễm bệnh cao nhất từ 18 – 45 tuổi [31] [32]. Việt Nam nằm trong khu  vực có nguy cơ cao về nhiễm virus VGB và là một trong những nước có tỷ lệ bệnh lưu hành cao nhất thế giới [13]. Theo số liệu điều tra huyết thanh học trên nhiều đối tượng khác nhau cho thấy tỷ lệ lưu hành của HbsAg (+) 9-19% (khoảng 12 triệu người), nhiễm VGSVB ở nông thôn Việt Nam là: sơ sinh 13%, trẻ em 18%, vị thành niên (VTN) 21%, người lớn 19%,  tỷ lệ người mang virus VGB trung bình là 15 –  25% [1] [15]. Tỷ lệ người mang HBsAg thay đổi tuỳ theo từng đối tượng và khu vực. Tần suất mang  HBsAg tăng cao ở lứa tuổi trưởng thành, ở nam cao hơn ở nữ và có liên quan đến nghề nghiệp, đến mức độ phơi nhiễm.[1] [11] [12]
Theo kết quả của nhiều nghiên cứu thì tỉ lệ nhiễm VGSVB cao nhất trong cộng đồng là ở đối tượng VTN (21%) [15]. Do đó, bảo vệ VTN tránh lây nhiễm VGSVB là vấn đề quan trọng, cấp bách và cần được quan tâm. Để làm được điều này ngay khi ngồi trên ghế nhà trường VTN phải được cung cấp kiến thức về VGB để có thái độ đúng trong phòng bệnh cho bản thân và cộng đồng. Chính vì thế, để giúp học sinh (HS) năm nhất ngành dược trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang có những kiến thức, thái độ, biện pháp phòng chống lây nhiễm virus VGB tích cực và hiệu quả hơn, tôi tiến hành nghiên cứu về: “Kiến thức, thái độ về phòng ngừa viêm gan siêu vi B của học sinh năm nhất ngành dược trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang năm 2014”  với mong muốn  Xác định tỷ lệ học sinh có kiến thức, thái độ đúng trong việc phòng ngừa viêm gan siêu vi B.

 

https://thuvieny.com/kien-thuc-thai-do-ve-phong-ngua-viem-gan-sieu-vi-b-cuahoc-sinh-nganh-duoc-nam-nhat/

Leave a Comment