Kiến thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi vùng dân tộc thiểu số tại huyện hướng hóa tỉnh Quảng Trị năm 2010

Kiến thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi vùng dân tộc thiểu số tại huyện hướng hóa tỉnh Quảng Trị năm 2010

Việt Nam đã có những thành công đáng kể trong việc hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em trong những năm vừa qua. Với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, sự can thiệp hiệu quả của chương trình Dinh dưỡng quốc gia và các can thiệp của các tổ chức quốc tế, tỷ lệ suy dinh dưỡng đã giảm xuống một cách đáng kể từ 51,5% năm 1985 xuống còn 19,9% năm 2008 [1]. Tuy vậy Việt Nam vẫn được coi là nước có tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng cao trên thế giới và trong khu vực, đặc biệt là suy dinh dưỡng thể thấp còi. Các nghiên cứu về suy dinh dưỡng trẻ em Việt Nam đã được nhiều nghiên cứu đề cập đến, nhưng nghiên cứu trên đối tượng người dân tộc thiểu số còn rất hiếm. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi và kiến thức, thực  hành  dinh  dưỡng  của  các  bà  mẹ  vùng đồng bào dân tộc thiểu số huyện Hướng Hóa từ đó đề xuất các giải pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em ở khu vực khó khăn này, Mục tiêu nghiên cứu:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới hai tuổi vùng dân tộc thiểu  số tại huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị năm 2010.
2. Mô tả kiến thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ của trẻ dưới 2 tuổi vùng  dân tộc thiểu số tại huyện Hướng Hóa tỉnh Quảng Trị năm 2010.
II. ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa bàn nghiên cứu: huyện Hướng Hóa Tỉnh Quảng Trị.
2. Đối tượng nghiên cứu: gồm trẻ em dưới 2 tuổi và các bà mẹ.
3. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: với cỡ mẫu 355 trẻ cho phép tính toán được tỷ lệ SDD dựa trên chỉ số cân nặng theo tuổi với độ tin cậy 95% và  = 0,05 (ước tính tỷ lệ suy dinh dưỡng của quần thể  nghiên cứu là 36%, theo báo cáo năm 2008 của Sở Y tế Tỉnh Quảng trị), cộng thêm 10% có thể từ chối, lấy tròn cỡ mẫu là 390 trẻ. Theo yêu cầu của nhóm nghiên cứu, cán bộ y tế huyện đã phối hợp với y tế xã và y tế thôn lập danh sách trẻ dưới 2  tuổi của 35 thôn của 11 xã có người dân tộc thiểu số sinh sống trên địa bàn huyện cùng với các thông tin về giới tính, ngày  tháng năm sinh, tên mẹ đã được lập và sử dụng để chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống.
Thu thập số liệu: các số liệu cân nặng chiều cao được thu thập theo kỹ  thuật chuẩn, phỏng vấn theo bộ câu hỏi để thu thập thông tin.
Phân tích số liệu: các số liệu nhân trắc được tính toán dựa theo quần thể  tham khảo WHO. Trẻ được coi là gầy  còm,  còi cọc hoặc thiếu cân nếu cân  nặng theo chiều cao, chiều cao theo tuổi và cân nặng theo tuổi lần lượt nhỏ hơn –  2SD [12]. Số liệu được phân tích bằng chương trình SPSS [11] và Epi info [10].  Test chi–square và Anova được sử dụng để đánh giá sự khác biệt về các tỷ lệ và giá trị trung bình
Trong những năm qua tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em Việt Nam đã giảm rất nhiều nhờ sự thay đổi của nền kinh tế xã hội nói chung và các can thiệp về dinh dưỡng của chương trình Dinh dưỡng quốc gia và của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên tỷ lệ suy dinh dưỡng vẫn còn khá cao ở các vùng nông thôn và miền núi. Mục tiêu: đánh giá kiến thức, thực hành dinh dưỡng của bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi vùng đồng bào dân tộc thiểu số huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang với cỡ mẫu 376 trẻ dưới 2 tuổi và các bà mẹ. Kết quả: tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thiếu cân là 49,7% (CN/T), thấp còi là 51,9% (CC/T) và gày còm là 15,3% (CN/CC). Tỷ lệ bà mẹ cho con bú sớm trong vòng giờ đầu sau khi sinh là 79,3%. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng chỉ là 6,9%. Trong số trẻ đã được ăn bổ sung có 82,1 % trẻ được cho ăn bổ sung sớm trước 4 tháng tuổi. Có 63,9% và 88,3% trẻ bị tiêu chảy hoặc viêm đường hô hấp trong hai tuần qua. Kết luận:
tỷ lệ mắc suy dinh dưỡng, nhiễm khuẩn hô hấp và tiêu chảy rất cao trong quần thể nghiên cứu. Kiến thức và thực hành nuôi con của các bà mẹ còn nhiều hạn chế đặc biệt là thực hành cho con bú hoàn toàn và ăn bổ sung.
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment