Mở đầu:Tinh hình nhiễm Enterobius vermicularis vẫn rất phổ biến ở Việt Nam so với sự phát triển vượt trôi về kinh tế, xã hội cũng như ý thức xổ giun định kỳ của người dân ngày càng được nâng cao. Việc kiểm soát bệnh giun kim phụ thuộc chủ yếu vào vấn đề vệ sinh cho trẻ và giải quyết mầm bệnh trong không gian sinh hoạt của trẻ. Vì vậy cần tiến hành GDSK cho cộng đồng vềcác biện pháp phòng ngừa nhiễm giun kim. Để đạt hiệu quả tối ưu trong công tác truyền thông, việc đánh giá kiến thức, thực hành của phụ huynh về phòng ngừa nhiễm giun kim là cần thiết.
Mục tiêu: Xác đinh tỷ lệ kiến thức, thực hành về phòng ngừa nhiễm giun kim của phụ huynh trẻ học mẫu giáo tại huyện Củ Chi, TP. HCM từ 09/2008 đến 05/2009.
Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên 1677trẻ học tại 4 trường được chọn ngẫu nhiên từ 28 trường mẫu giáo thuộc huyện Củ Chi năm học 2008 – 2009. Sử dụng bảng câu hỏi tự điền để thu thập thông tin về hành chánh, kiến thức và thực hành của phụ huynh. Chẩn đoán nhiễm giun kim bằng kỹ thuật Graham.
Kết quả: Tỷ lệ phụ huynh có kiến thức đúng là 46%, chủ yếu tập trung ở nhóm lao động trí óc và học vấn >
cấp 2. Số phụ huynh thực hành đúng chiếm 30,1%. Không có sự khác biệt đáng kể về thực hành giữa các nhóm.
Nhóm có kiến thức đúng sẽ thực hành đúng gấp 1,28 lần nhóm có kiến thức chưa đúng (p=0,02).
Kết luận và đề xuất: Nên phối hợp đồng thời tẩy giun hàng loạt với GDSK trong kiểm soát nhiễm giun
kim ở trẻ mẫu giáo. Việc GDSK nên được tiến hành phù hợp với trình độ học vấn, thời gian của phụ huynhvà
cần được duy trì thường xuyên.
Nhiễm giun đường ruột là một vấn đề đang được quan tâm ở các xứ nhiệt đới, cận nhiệt đới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Một số khảo sát về giun đường ruột đã chứng tỏ tỷ lệ nhiễm giun kim ở trẻ nhỏ khá cao trong khi việc điều trị, phòng ngừa nhiễm giun kim không phải là vấn đề phức tạp, tốn kém (8,10). Khoảng 1 tỉ người trên thế giới bị nhiễm giun kim vào năm 1994, tập trung chủ yếu ở trẻ em, nhất là trẻ sống trong môi trường tập thể như nhà trẻ, lớp mẫu giáo,… (1). Năm 2004, y văn ước tính hơn 30% trẻ dương tính với phết Graham (2). Các điều tra năm 2006 tại Mỹ và Canada cho thấy 30% đến 80% trẻ mắc bệnh (6). Ở Việt Nam, tỷ lệ này dao động từ 18,5% đến 47%, có vùng lên đến 73,45% (3, 4, 5, 7, 9, 12)và cũng tập trung ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.