kỹ THUẬT KHÂU NỐI MMẠCH MÁU TRONG GHÉP THẬN QUA 98 TRƯỜNG HỢP TẠI BỆNH VIỆN 103
Nghiên cứu 98 bệnh nhân (BN) suy thận giai đoạn cuối được ghép thận với 96 thận từ người cho sống và 2 thận từ người cho chết não tại Bệnh viện 103. BN được chia thành 2 nhóm: 82 BN (83,6%) được nối động mạch (ĐM) thận tận-tận với ĐM chậu trong và 16 BN (16,4%) nối tận-bên với ĐM chậu ngoài hoặc chậu gốc. Tất c¶ BN đều được nối tĩnh mạch (TM) tận-bên với TM chậu. 6 BN (6,1%) biến chứng mạch máu xảy ra ở cả 2 nhóm, 4,1% hẹp, tắc miệng nối và 2,0% chảy máu miệng nối. Tình trạng miệng nối, chỉ số ure, creatinin máu, lượng nước tiểu tương đương ở 2 nhóm.Không có sự khác biệt giữa hai kỹ thuật về các biến chứng mạch máu và chức năng thận sau ghép.Chất lượng của kỹ thuật khâu nối mạch máu có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả sau ghép thận. Trên lâm sàng, có nhiều biến chứng sớm và muộn sau ghép thậnliên quan đến tình trạng miệng nối mạch máu. Mặc dù kỹ thuật ghép thận đã được chuẩn hóa nhiÒu nhưng trong quá trình phẫu thuật vẫn có những thay đổi để phù hợp với đặc điểm của từng ca bệnh, đặc biệt là đặc điểm về mạch máu ở cả thận ghép và người nhận.Khâu nối mạch máu trong ghép bao gồm miệng nối TM và ĐM. Miệng nối TM gần như đã được thống nhất là nối TM thận với TM chậu ngoài hoặc chậu gốc kiểu tận-bên. Ngược lại, có hai cách phổ biến với kỹ thuật nối ĐM là nối với ĐM chậu trong kiểu tận-tận hoặc tận-bên với ĐM chậu ngoài hay ĐM chậu gốc. Mặc dù đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này, nhưng hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về đánh giá ưu nhược điểm của mỗi kỹ thuật nối ĐM và kỹ thuật nào là tối ưu hơn. Do đó, hai kỹ thuật trên vẫn đang được các phẫu thuật viên áp dụng song song ở nhiều trung tâm khác nhau.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất