Lấy bỏ xốp xương hộp điều trị bàn chân khoèo bẩm sinh trẻ em dưới 24 tháng tuổi

Lấy bỏ xốp xương hộp điều trị bàn chân khoèo bẩm sinh trẻ em dưới 24 tháng tuổi

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật bàn chân khoèo trẻ em dưới 24 tháng tuổi bằng lấy bỏ xốp xương hộp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 127 bệnh nhân (180 bàn chân), bị hai bên 51 bệnh nhân (40,2%), bên trái 22 bệnh nhân (17,3%), bên phải 54 bệnh nhân (42,5%). Phân loại theo Diméglio mức II 56 (31,1%), mức III 95 (52,8%), mức IV 29 (16,1%). Sau mổ, chúng tôi thu được rất tốt 50,6%, Tốt 42,2%, Khá 6,1% và kém 1,1%. Khép phần trước bàn chân còn 10,6%. Nhìn chung, phương pháp cắt chọn lọc phần mềm kết hợp lấy bỏ xốp xương hộp cho kết quả sau mổ đạt rất tốt và tốt 92,8%. Phương pháp phẫu thuật đơn giản và an toàn có thể thực hiện trên bệnh nhân có bàn chân khoèo bẩm sinh.

Bàn chân khoèo bẩm sinh là một biến dạng thường gặp, tỷ lệ xấp xỉ 1%-2% ở trẻ sơ sinh, ở trẻ da trắmg châu Âu có tỷ lệ 1/1000. Điều trị bàn chân khoèo bẩm sinh có thể bằng nắn chỉnh và bó bột hoặc phẫu thuật. Mục đích điều trị nhằm phục hồi chức năng, không đau, không có sẹo xơ hoặc không cần mang giầy đặc biệt.
Mục tiêu nghiên cứu
1.    Phân loại bàn chân khoèo.
2.    Đánh giá kỹ thuật phẫu thuật lấy bỏ xốp xương hộp điều trị bàn chân khoèo bẩm sinh.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu công trình này gồm 180 bàn chân của 127 bệnh nhân được phẫu thuật từ tháng 1 năm 2000 đến tháng 12 năm 2005 tại Bệnh viện Nhi Trung ương. Có 51 
Bệnh nhân được loại trừ khỏi nghiên cứu nếu trẻ có bệnh lý kết hợp: tách đốt sống bẩm sinh, dính khớp nhiều nơi, khép bàn chân bẩm sinh, ngấn ối. Bệnh nhân đã có phẫu thuật bàn chân trước đây.
2.    Phương pháp: Hồi cứu và mô tả trước và sau phẫu thuật
Xác định lâm sàng
–    Ghi nhận thông tin bao gồm tuổi, giới, bên bệnh, thời gian điều trị bằng bột, tuổi tại thời điểm phẫu thuật, thời gian bột sau phẫu thuật, và chi tiết phẫu thuật.
–     Lâm sàng với ghi nhận chiều dài chi, chu vi cẳng chân, chiều dài và chiều rộng bàn chân.
Thuổng bàn chân: ghi nhận cả hai vị trí khớp gối gấp 45°-90° và khớp gối duỗi thẳng.
Vị trí Varus và Valgus gót chân.
Khép phần trước của bàn chân.
Đánh giá dáng đi khi bệnh nhân đi nhanh.
–    Lâm sàng được phân loại theo Diméglio [3]: (1) thuổng bàn chân theo mặt đứng dọc, (2) Varus theo mặt phẳng trán, (3) xoay ngửa bàn chân, và (4) khép phần trước bàn chân.
Phân chia mức độ theo điểm đo được, tối đa 20 điểm: Mức độ I (nhẹ) < 5 điểm, Mức độ II (vừa) > 5 – < 10 điểm, Mức độ III (nặng) > 10
–    < 15 điểm, và Mức độ rất nặng > 15 điểm.
Xác định X quang
X quang được thực hiện trước mổ, sau mổ 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng, và đánh giá lần khám sau cùng.
X quang đánh giá bàn chân được chụp phim với bàn chân vị trí đứng. Đo góc trên phim thẳng các góc: sên-gót. thuyến – xương bàn I, gót – xương bàn V. Phim nghiêng gồm: gót – xương bàn V, sên – gót.
Chỉ số sên – gót được tính theo tổng góc đo được ở hai góc sên – gót.
Chi tiết phẫu thuật
Làm rời phần mềm chọn lọc
Đường rạch thứ nhất: mặt sau cẳng chân, trên gót 1,5cm. Rạch da dài 0,5 – 1cm, bộc lộ gân Achilles. Thận trọng cắt rời gân Achilles. Nếu gấp mu < 5°, tiến hành mở rộng đường mổ thêm 2cm. Tiến hành cắt bao khớp sau cổ chân (chầy – sên).
Đường rạch da 2 (mặt trong bàn chân): dài 5 cm, từ xương chêm trong tới mắt cá trong. Tiến hành nới dài gân cơ chầy sau chữ Z. Cắt bao khớp sên – thuyền. Cắt bao khớp thuyền
–    xương chêm trong. Cắt dây chằng Deltoid (dây chằng chầy-gót).
Lấy bỏ xốp xương hộp
Đường rạch 3 (mặt ngoài bàn chân): Rạch da dài 4 cm, trực tiếp trên xương hộp từ giữa xương bàn 4 và 5 tới mắt cá ngoài. Bộc lộ mặt trên xương hộp. Tạo nắp xương trên xương hộp hình thoi. Lấy bỏ xốp xương hộp bằng curette nhỏ. Xoay sấp và giang bàn chân 20° từ giữa bàn chân. Cố định xương gót và xương hộp bằng đinh Kirschner 1,5mm qua xương bàn V, xương hộp và xương gót. Đóng trường mổ bằng chỉ Vicryl 4/0.
Theo rõi sau mổ
Bàn chân được bất động bằng bột trên gối và gối gấp 60° và giang bàn chân 20° trong tuần đầu sau mổ. Bột thứ hai được thay sau 3 tuần sau mổ. Bột thứ ba được thay sau 6 tuần sau mổ. Sau lần thay bột thứ ba, bột được bó dưới gối và được duy trì trong 6 tuần tiếp theo. Toàn bộ thời gian mang bột là 12 tuần. Sau 12 tuần, đinh Kirschner được lấy bỏ. Bột được duy trì trong 8 tuần tiếp theo. Sau mổ 5 tháng, bệnh nhân được duy trì bằng dụng cụ chỉnh hình trong. Sau giai đoạn này, bệnh nhân được mang nẹp chỉnh hình về đêm cho tới ngoài 3 tuổi.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment