Lợi thế mạch máu của các vạt ở mặt sau của chi trên trong che phủ các tổn khuyết ở bàn tay

Lợi thế mạch máu của các vạt ở mặt sau của chi trên trong che phủ các tổn khuyết ở bàn tay

Các khuyết da ở bàn tay sẽ để lại sẹo dính, làm hạn chế cử động của ngón tay. Che phủ bằng vạt da ở thì đầu hoặc thì hai có thể tránh (hoặc giải quyết được) di chứng này. Các vạt từ xa (bằng chuyển vi phẫu hoặc không) hoặc vạt Trung Quốc đã được sử dụng để che phủ tổn khuyết, nhưng có nhược điểm là khó thực hiện (vạt vi phẫu) hoặc phải hy sinh một mạch lớn cấp máu cho bàn tay (vạt Trung Quốc). Để thay thế, VGCS (do ĐMGCS cấp máu) và VCTN (do ĐMBQS cấp máu) được xem như những chất liệu hữu hiệu hơn so có nhiều lợi thế về mạch máu.
Để chứng minh các lợi thế của VGCS và VCTN, chúng tôi nghiên cứu giải phẫu mạch máu của các vạt này trên người Việt Nam nhằm 2 mục tiêu: (1) Mô tả các dạng giải phẫu và xác định kích thước của ĐMGCS và hệ thống ĐMBQ; và (2) Nhận định các kiểu thiết kế vạt cho điều trị các khuyết hổng ở bàn tay.
2.    Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
ĐMGCS và ĐMBQS được khảo sát trên 25 vùng cẳng tay sau và 17 vùng cánh tay ngoài của 15 xác người lớn ngâm formalin; các mạch này được bộc lộ bằng kỹ thuật phẫu tích như mô tả dưới đây.
Rạch da theo đường dọc giữa vùng cánh tay trước, vùng khuỷu trước và vùng cẳng tay trước tới tận cổ tay. Tại vùng cánh tay trước, phần da phía ngoài được lật cho tới tận vách gian cơ ngoài. ĐMBQT nằm trong vách gian cơ này sẽ được phẫu tích tỉ mỉ cùng với các nhánh da của chúng. Ở cẳng tay trước, các vùng da được lật sang hai bên để có thể tiếp tục phẫu tích bộc lộ phần trên của ĐM trụ, ĐM gian cốt chung (ĐMGCC) và ĐM gian cốt trước (ĐMGCT). Vùng cẳng tay sau được bộc lộ bằng cách lật tiếp mảnh da bên phía quay của vùng cẳng tay trước cho tới khi tới vách gian cơ giữa cơ duỗi ngón tay út và cơ duỗi cổ tay trụ. ĐMGCS và các nhánh của nó được phẫu tích chi tiết trong vách gian cơ này.
3.    Kết quả nghiên cứu
3.1. Động mạch gian cốt sau
Sự có mặt và đường đi. ĐMGCS có mặt ở 23/25 trường hợp (92%), trong đó 21/25 trường hợp (84%) tách ra như một trong các nhánh tận của ĐMGCC và 2/25 trường hợp (8%) từ ĐM trụ. Nó chạy trong vách gian cơ giữa cơ duỗi ngón tay út và cơ duỗi cổ tay trụ. Với 2 trường hợp (8%) không có ĐMGCS, các nhánh thay thế từ ĐMGCT phân nhánh nối với nhau tạo thành chuỗi vòng nối cũng nằm trong vách gian cơ này.
Các nhánh bên của ĐMGCS
ĐM quặt ngược gian cốt (ĐMQNGC) là nhánh bên của ĐMGCS ở 84% các trường hợp. Số còn lại hoặc không tồn tại (8%) hoặc tách từ ĐMGCC (8%). Khi chạy ngược lên vùng khuỷu, ĐM này cũng tách ra 1-2 ĐM mạc-da.
Các ĐM mạc-da. ĐMGCS tách ra 7-14 nhánh mạc da trên đường đi; khi không có ĐMGCS, chuỗi nhánh nối từ ĐMGCT tách ra 6-8 nhánh mạc da; ĐMQNGC cũng tách ra các nhánh mạc da. Nhánh da gần (nhánh mạc da lớn nhất trong số các nhánh mạc da trên cùng) có thể là nhánh từ: (i) ĐMGCS (80%); (ii) ĐMQNGC (12%); và (iii) từ nhánh cấp máu thay thế đầu tiên của ĐMGCT) (8%).
Các nhánh cơ. Nhánh cơ sâu xuất hiện ở 88% các trường hợp. Nhánh này chạy giữa các lớp cơ vùng cẳng tay sau để tới nằm trong vách gian cơ giữa cơ duỗi các ngón tay và các cơ ở lớp sâu. Chỉ có 4% các trường hợp không có nhánh này. Nhánh nuôi cơ duỗi cổ tay trụ có mặt hằng định và tách ra ở dưới nhánh da gần khoảng 1-1.5cm.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment