LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN Ố LOẠN NHỊP TRONG ĐIỀU TRỊ TRIỆT PHÁ NHỊP NHANH THẤT BUỒNG THOÁT QUA CATHETER

LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN Ố LOẠN NHỊP TRONG ĐIỀU TRỊ TRIỆT PHÁ NHỊP NHANH THẤT BUỒNG THOÁT QUA CATHETER

 LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN Ố LOẠN NHỊP TRONG ĐIỀU TRỊ TRIỆT PHÁ NHỊP NHANH THẤT BUỒNG THOÁT QUA CATHETER

Nguyễn Đức Công , Nguyễn Ngọc Tước , Trương Quang Khanh*, Trần Văn Kiệt*, Lê Hà Trung*,
Nguyễn Công Vân*
TÓM TẮT
Cơ sở nghiên cứu: Nhịp nhanh thất buông thoát là nhịp nhanh thất nguyên phát thường gặp trên lâm sàng ở bệnh nhân không có bệnh tim cấu trúc. Hiện nay, phương pháp điều trị triệt phá loạn nhịp qua Catheter đã chứng tỏ hiệu quả điều trị cao và là trở thành lựa chọn điều trị ưu tiên cho loạn nhịp này. Cách thức tiếp cận ổ loạn nhịp qua catheter trong buông tim có hai phương pháp là: tìm vị trí cho khử cực thất sớm nhất trong cơn nhịp nhanh, và vị trí cho hình ảnh QRS khi kích thích thất giống hình ảnh QRS trên 12 chuyển đạo điện tâm đô’ ngoại biên.
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hoạt động điện học trong buông tim tại vị trí triệt phá thành công và thất bại nhịp nhanh thất buông thoát nhằm lựa chọn phương pháp tiện lợi, chính xác nhất giúp triệt phá ổ nhịp nhanh thất buông thoát thành công.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, tiền cứu kết hợp hôi cứu.
Kết quả: Tổng số 81 BN (39 Nam, 68 nữ) được chẩn đoán nhịp nhanh thất buông thoát và điều trị bằng phương pháp triệt phá loạn nhịp qua Catheter tại BV Thống Nhất từ năm 2004 đến nay. Kết quả tỉ lệ triệt phá thành công loạn nhịp là 96,3% tại các vị trí vùng vách là 47 BN (58%), thành tự do là 28 BN (34,6%), thất trái là 3 BN (3,7%) với tỉ lệ tái phát là 6,1%. Ghi nhận thời gian khử cực nội mạc sớm nhất trong cơn nhịp nhanh tại vị trí cho kết quả thành công, không tái phát (73 BN) là 38± 11 ms, còn tại vị trí thất bại, hay tái phát (8 BN) là 26± 8ms có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p= 0,037). Tại các vị trí cho kết quả thành công, không tái phát khi kiểm tra sự tương đông QRS khi kích thích thất cho hình ảnh giống 11-12 CĐ/12 chuyển đạo điện tâm đô’ bề mặt là 71 BN, hình ảnh QRS < 10CĐ/ 12 CĐ là 2 BN. Tại vị trí thất bại, tái phát thì sự tương đông QRS luôn luôn < 10 CĐ/12 CĐ bề mặt ở 8 BN (độ nhạy là 97,3%, độ đặc hiệu 100%).
Kết luận: Phương pháp kích thích thất cho hình ảnh phức bộ QRS tương đông 11-12 CĐ/12 CĐ điện tâm đô’ bề mặt là chỉ điểm cho vị trí triệt phá thành công loạn nhịp nhanh buông thất hơn so phương pháp tìm vị trí khử cực nội mạc sớm.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment