Luận án Nghiên cứu áp dụng nẹp vít tự tiêu trong điều trị gãy xương hàm dưới
Luận án Nghiên cứu áp dụng nẹp vít tự tiêu trong điều trị gãy xương hàm dưới.Chấn thương hàm mặt là một cấp cứu hay gặp trong cuộc sống hàng ngày, gia tăng đáng kể trong những năm gần đây và có xu hướng ngày càng nặng và phức tạp: số đường gãy, di lệch nhiều hơn, phối hợp với các tổn thương phần mềm, mạch máu – thần kinh, chấn thương sọ não hoặc chấn thương phối hợp với các bộ phận khác của cơ thể; nguyên nhân chủ yếu do tai nạn giao thông mà đặc biệt là tai nạn xe máy.
Trong các chấn thương hàm mặt thì chấn thương gãy XHD chiếm tỷ lệ cao nhất, đang là vấn đề được quan tâm đặc biệt ở các nước đang phát triển (Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ, Châu Phi…). Theo Balwant Rai và CS (2007) gãy XHD chiếm 61% các gãy xương mặt. Ở Việt Nam, nghiên cứu của Trần Văn Trường và Trương Mạnh Dũng tại Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội (1988 – 1998), có 2149 trường hợp chấn thương hàm mặt, trong đó gãy XHD là hay gặp nhất (63,66%) và chủ yếu là do tai nạn giao thông (82,5%).
Xương hàm dưới là xương chính tạo nên cấu trúc 1/3 dưới của khuôn mặt, và là xương động duy nhất của khối sọ mặt. Trên xương có răng và nhiều cơ bám để thực hiện chức năng ăn nhai, thể hiện cảm xúc; cấu trúc đặc biệt thân xương cong vòng, có nhiều điểm yếu như vùng góc hàm, đường giữa, cổ lồi cầu nên rất dễ gãy. Điều trị không những phải đảm bảo chức năng ăn nhai mà còn phục hồi về mặt thẩm mỹ. Việc lựa chọn phương pháp cũng như vật liệu để phẫu thuật kết hợp xương rất quan trọng, quyết định tới kết quả của phẫu thuật. Trong những năm gần đây, có rất nhiều hệ thống nẹp vít đã được sử dụng kết hợp xương hàm dưới đạt được kết quả tốt, sự cố định cứng chắc sau khi mổ giúp quá trình liền xương nhanh, tránh những di lệch thứ phát, thời gian cố định hàm rút ngắn.
Trên thế giới, nẹp vít tự tiêu (Resorbable plates and screws) xuất hiện đầu tiên tại Mỹ từ đầu thập kỷ 90 của Thế kỷ XX, là một giải pháp kỹ thuật tốt vừa kế thừa được ưu điểm của nẹp vít thông thường đạt được độ cứng chắc, ổn định của 2 đầu xương gãy; vừa khắc phục được nhược điểm phải tháo bỏ nẹp vít tránh cho bệnh nhân phải tiến hành phẫu thuật lần 2, vừa tốn kém kinh tế, thời gian cũng như để lại sẹo xấu, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và tâm lý của bệnh nhân. Ngoài ra, nẹp vít tự tiêu có thể đóng vai trò tư¬ơng đ-ương với các tổ chức khi những liệu pháp xạ trị sau phẫu thuật đ¬ược tiến hành; ích lợi khác là khả năng thấu quang, thuận lợi cho chẩn đoán hình ảnh sau phẫu thuật. Ở các bệnh nhi, vấn đề điều trị chấn thư¬ơng và phẫu thuật chỉnh hình trở nên dễ dàng hơn vì chúng không ngăn cản sự phát triển của xư¬ơng.
Ngày nay, các hệ thống nẹp vít tự tiêu đều mang tính t¬ương hợp sinh học cao, đ¬ược sử dụng rộng rãi và đang có triển vọng là một trong những phương pháp điều trị chấn thư¬ơng, đặc biệt sử dụng tốt cho trẻ em hoặc ở x-ương hàm trên. Tuy nhiên, vấn đề bất lợi lớn còn tồn tại đối với một số nước đang phát triển là giá thành nẹp vít tự tiêu còn cao. Ban đầu, nẹp vít tự tiêu chỉ sử dụng một cách giới hạn trong phẫu thuật sọ não (như trường hợp dính sọ sớm, thoát vị não), sau đó được sử dụng trong kết hợp xương tầng mặt giữa và phẫu thuật chỉnh hình răng hàm mặt. Với xương hàm dưới, người ta còn nghi ngờ hiệu quả của loại vật liệu này, gần đây mới có một số báo cáo ghi nhận sự thành công khi sử dụng hệ thống nẹp vít tự tiêu trong phẫu thuật xương hàm dưới.
Ở Việt Nam, nẹp vít tự tiêu mới được đưa vào sử dụng những năm gần đây, tuy nhiên việc sử dụng mới chỉ mang tính chất thử nghiệm và hiện các nghiên cứu về áp dụng phương pháp này còn chưa nhiều. Vì vậy, để nghiên cứu và áp dụng kỹ thuật kết hợp xương hàm dưới bằng nẹp vít tự tiêu chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu áp dụng nẹp vít tự tiêu trong điều trị gãy xương hàm dưới” nhằm hai mục tiêu sau:
1. Nhận xét các hình thái lâm sàng của gãy xương hàm dưới.
2. Đánh giá kết quả của kỹ thuật áp dụng nẹp vít tự tiêu trong kết hợp xương hàm dưới, so sánh với dùng nẹp vít Titanium.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1.Lâm Ngọc Ấn và cộng sự (1993), “Chấn thương vùng mặt do nguyên nhân thông thường”, Kỷ yếu công trình khoa học, Viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh, Tr. 127-131.
2.Lâm Ngọc Ấn, Lâm Hoài Phương, Bùi Hữu Lâm (1994), “Điều trị gãy lồi cầu bằng phương pháp bảo tồn”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1975-1993, Viện Răng Hàm Mặt Thành phố Hồ Chí Minh. Tr. 137-144.
3. Bộ môn RHM (1979), “Chấn thương hàm mặt”, RHM tập II Trường ĐH YHN NXB Yhọc, Tr. 3 – 34.
4.Phạm Đăng Diệu (2010), Giải phẫu đầu mặt cổ, NXB Y học, Tr.70 – 98.
5.Nguyễn Thế Dũng (1996), Lâm sàng và điều trị gãy xương hàm dưới do va đập, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Y dược, Trường Đại học Y Hà Nội, Tr.1-150.
6.Trương Mạnh Dũng (2002), Nghiên cứu lâm sàng và điều trị gãy xương gò má – cung tiếp, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Tr.1-133.
7.Trương Mạnh Dũng (2012), “Đặc tính sinh học của nẹp vít tự tiêu dùng trong phẫu thuật”, Tạp chí nghiên cứu y học, 79 (2), Tr.50-53.
8.Trương Mạnh Dũng (2012), Nghiên cứu áp dụng hệ thống nẹp vít tự tiêu trong điều trị gãy xương hàm mặt, Đề tài cấp bộ, Tr 1-77.
9. Nguyễn Hoành Đức (1979), Chấn thương vùng hàm mặt, Răng hàm mặt tập 2 – Nhà xuất bản Y học, Tr 241-248.
10. Nguyễn Quốc Đức (1983), Gãy XHD thời bình theo dõi đánh giá kết quả điều trị 11 năm tại Viện Răng Hàm Mặt, Luận văn Bác sỹ nội trú bệnh viện, Trường Đại học Y Hà Nội.
11. Nguyễn Quang Hải (2008), Lâm sàng X quang gãy góc hàm XHD và đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà nội.
12. Nguyễn Dương Hồng, Phan Huy Phát (1961), Máng nhựa để cố định xương hàm gãy, Nội san Răng Miệng Hàm Mặt, số 01 năm 1961, Tr .62 – 65.
13.Hoàng Tử Hùng (2005), Động học cắn khớp, Cắn khớp học, Nhà xuất bản Y học Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh, Tr. 67-83.
14.Mai Đình Hưng (1999), “Xquang răng hàm mặt”, Tài liệu dịch.
15. Phạm Văn Liệu (1996), Góp phần nghiên cứu lâm sàng và phẫu thuật gãy xương hàm dưới, Luận văn tốt nghiệp BS chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Hà Nội, (tr 36 – 47).
16.Phạm Văn Liệu (2008), Đặc điểm dịch tễ học gãy xương hàm dưới và so sánh hai phương pháp điều trị gãy góc hàm, Luận án tiến sĩ Y học TPHCM.
17.Phạm Văn Liệu, Nguyễn Khắc Giảng (1998), “Nhận xét ứng dụng phương pháp dùng nẹp có bắt vít để điều trị gãy xương hàm dưới”, Y học thực hành, Số 348, Tr. 134-137.
18. Trịnh Văn Minh (2001), Giải phẫu đầu mặt cổ – Giải phẫu người tập 1 tái bản lần thứ 2, NXB Y học 2001 (tr 434 – 516).
19.Vũ Đức Mối, Lê Gia Vinh, Hoàng Văn Lương (2001), Atlas giải phẫu người, Nhà xuất bản Y học, Tr. 21-48.
20.Nguyễn Kỳ Nhân (2011), Nhận xét lâm sàng, Xquang và kết quả điều trị kết hợp gãy xương hàm dưới bằng nẹp vít tự tiêu, Luận văn chuyên khoa cấp 2, Tr. 64.
21. Nguyễn Tấn Phong (2001), Xử trí chấn thương tầng dưới sọ mặt , phẫu thuậT, điều trị chấn thương sọ mặt, NXB Yhọc 2001, (tr . 66 – 69).
22.Nguyễn Mạnh Phú (2006), Tại Viện RHM Quốc gia tháng 3- 9/2006 nghiên cứu về gãy xương hàm dưới, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
23. Nguyễn Đình Phúc (2010), Đánh giá kết quả kỹ thuật kết hợp xương bằng nẹp vít tự tiêu và hoàn thiện quy trình, Đề tài khoa học cấp thành phố Hà Nội.
24.Nghiêm Chi Phương (2002), Đánh giá hiệu quả phương pháp điều trị kết hợp xương hàm dưới bằng nẹp vít, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ Nội trú các Bệnh viện, Trường Đại học Y Hà Nội, Tr. 9-37.
25.Võ Thế Quang (1965), Chẩn đoán và điều trị gãy xương hàm dưới, Răng Hàm Mặt (2), Tr. 27-36.
26.Nguyễn Quang Quyền (1996), Đầu Mặt Cổ, Bài giảng giải phẫu học tập I, tái bản lần thứ 6, NXB Yhọc chi nhánh Tp Hồ Chí Minh, (tr . 96 – 105).
27. Lê Văn Sơn (1998), Chấn thương vùng hàm mặt, Bài giảng Răng Hàm Mặt, Nhà xuất bản Y học, 1998, Tr. 73-77.
28. Lý Hán Thành (2002), Nhận xét đặc điểm lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị bằng phẫu thuật gãy XHD phức hợp nhiều đường tại Viện RHM Hà Nội, Luận văn thạc sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội 2002.
29. Bùi Hữu Trực (2011), Nhận xét lâm sàng, Xquang và đánh giá kết quả điều trị gãy xương hàm dưới vùng cằm do chấn thương tại Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương, Luận văn bác sỹ chuyên khoa cấp II, Tr.55-84.
30. Lê Xuân Trung (1991), Chấn thương sọ não Bách khoa thư bệnh học, tập I NXB Y học năm 1991, ( tr. 116-119).
31. Trần Văn Trường (1973 ), Chấn thương Răng Miệng Hàm Mặt, Cấp cứu Răng Miệng Hàm Mặt, tài liệu dịch, GS.Vale Rian Popexcu, GS. Xtiebe Gsallepurexcu, NXB Y học năm 1973, (tr.176 – 188).
32.Trần Văn Trường, Trương Mạnh Dũng (1999), “Tình hình chấn thương hàm mặt tại Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội trong 11 năm (1988-1998) trên 2.149 trường hợp”, Y học thực hành (10), (11). Tr. 71-80.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất