Mất cân bằng giới tính khi sinh ở tỉnh Hưng Yên hiện nay – thực trạng và giải pháp
Sự mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam gia tăng nhanh chóng trong vòng năm năm gần đây. Đây không phải là vấn đề mới nhưng luôn “nóng”.
Theo thống kê của Tổng cục Dân số – Kế hoạch hóa gia đình, 10 tỉnh có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất gồm: Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Hòa Bình, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc.
Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, Bộ Y tế phải có chương trình làm việc cụ thể với tỉnh ủy, thành ủy và UBND 10 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất (từ 115 trở lên/100) để khắc phục cho được vấn đề này.
Đây là một trong những chỉ đạo của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đối với Bộ Y tế nhằm triển khai có hiệu quả Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011-2020.
Theo đó, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần có giải pháp mạnh để tỷ số giới tính khi sinh không tăng vượt mức 105/100. UBND 10 tỉnh, thành phố có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất (từ 115 trở lên/100) phải xây dựng kế hoạch giai đoạn 2011-2015 với các giải pháp đột phá, quyết liệt để nhanh chóng thoát khỏi tình trạng mất cân bằng nghiêm trọng về tỷ số giới tính khi sinh; hàng năm, có báo cáo về tỷ số này gửi Bộ Y tế để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Bộ Y tế hướng dẫn các địa phương trong việc kiểm soát dịch vụ lựa chọn giới tính khi sinh.
Hoạt động công tác Dân số – Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) qua 50 năm (1961 – 2011) từ khi thành lập đến nay đã đạt được rất nhiều thành tựu đáng tự hào. Đến năm 2009, quy mô dân số nước ta tương đối ổn định với 85,85 triệu người (đứng hàng thứ 13 trên thế giới, thứ 3 trong khu vực sau Indonesia và Phillippine); tỷ suất sinh thụ còn 1,76%; tỷ suất chết thụ giảm còn 0,65%; đạt được mức sinh thay thế vào năm 2005 với tổng tỷ suất sinh là 2,11 (năm 2009 còn 2,03); tỷ lệ tăng dân số hàng năm thấp và chúng ta đã kiểm soát được tốc độ tăng dân số; nước ta đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng…
Tuy nhiên, đã phát sinh một số thách thức như: Tốc độ phát triển dân số tuy có giảm nhưng quy mô dân số khá lớn; Tỷ lệ trẻ em giảm mạnh và người cao tuổi tăng nhanh; Mất cân bằng giới tính khi sinh ngày càng nghiêm trọng; Dân số phân bố không đều và tốc độ di cư ngày càng lớn; Mức sinh đã giảm mạnh nhưng chưa ổn định và rất khác nhau giữa các vùng miền; Chất lượng dân số còn thấp; Nhiều vấn đề nảy sinh trong công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản…
Trong những thách thức nói trên, chúng ta rất lo lắng đến việc mất cân bằng giới tính khi sinh, bởi lẽ đây thật sự là một thách thức, gây ra nhiều tác hại cho đời sống xã hội trong tương lai và có thể xem là “một hành động tự sát tập thể của cả dân tộc nếu không khắc phục được” như lời phát biểu của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân trong một hội thảo quốc tế về công tác DS-KHHGĐ mới đây.
Trước tình trạng mất cân bằng giới tính ngày càng nghiêm trọng như hiện nay, nếu không có giải pháp quyết liệt thì trong khoảng 15 – 20 năm nữa, sẽ có khoảng 2,3 – 4,3 triệu nam giới Việt Nam không có khả năng lấy được vợ là người Việt Nam. Hệ lụy của vấn đề này sẽ làm phá vỡ cấu trúc gia đình, gia tăng thêm tình trạng bạo lực giới và tình trạng mãi dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em gái…
Mặt khác, việc ngăn ngừa, kiểm soát sự gia tăng của tình trạng này sẽ giúp cho các nước không phải tiếp tục đối mặt với những hệ lụy của nó, tránh tác động xấu đến sự phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia.
Hiện nay, so với tỷ lệ trung bình cả nước là 110 bộ trai/100 bé gái thì tại Hưng Yên, tỉnh nằm trong kinh tế trọng điểm Bắc bộ, cửa ngõ phía đông Hà Nội, tỷ số giới tính khi sinh lại “vọt” tới 121/100. Mất cân bằng giới tính khi sinh đã và đang là vấn đề nổi cộm trong công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình ở Hưng Yên. Bởi vậy, việc tập trung nguồn lực, tích cực triển khai các giải pháp đồng bộ để từng bước khống chế, giảm bớt tốc độ gia tăng mất cân bằng giới tính khi sinh tại Hưng Yên là việc làm cần thiết.
Từ những cơ sở trên em đã quyết định chọn vấn đề: “ Mất cân bằng giới tính khi sinh ở tỉnh Hưng Yên hiện nay – thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất