Mô hình dị tật tim bẩm sinh qua sàng lọc siêu âm tim ở trẻ điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện nhi trung ương
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu xác định tỷ lệ dị tật tim bẩm sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy: trong 3 tháng tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Trung ương có 1176 trẻ nhập viện, chúng tôi sàng lọc 1124 trẻ trong đó có 272 trẻ có dị tật tim bẩm sinh chiếm tỷ lệ 24,2%. Tỷ lệ nam/nữ là 1,5/1. Tỷ lệ từng thể dị tật là: còn ống động mạch 36,3%, thông liên thất 8,9%, thông sàn nhĩ thất 8,9%, thông liên nhĩ 7,4%, đảo gốc động mạch 5,2%, thất phải hai đường ra 5,9%, hẹp và teo van động mạch phổi 8,1%, hẹp eo động mạch chủ 3,7%, hẹp động mạch chủ 1,4%, thân chung động mạch 3%, rò động mạch vành bẩm sinh 1,5%, hội chứng thiểu sản thất trái 4,4%, dị tật khác 4,8%. Kết quả trên chứng tỏ rằng: Tỷ lệ dị tật tim bẩm sinh tại khoa sơ sinh là 24,2%, nếu không tính ống động mạch ở trẻ đẻ non tỷ lệ là 12%, gặp hầu hết các thể tim bẩm sinh ở đây, các dị tật phức tạp chiếm tỷ lệ cao hơn so với tỷ lệ trong cộng đồng.
Tim bẩm sinh là dị tật rất hay gặp ở trẻ. Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, tỷ lệ bệnh khoảng từ 5 – 8/1000 trẻ sinh ra sống [1, 3, 8]. Trên thế giới, việc sàng lọc tất cả các trẻ sau khi sinh đã được thực hiện ở nhiều nước phát triển do đó dị tật tim bẩm sinh được phát hiện và can thiệp sớm mang lại hiệu quả cao cho người bệnh.
Việc sàng lọc tất cả các trẻ vào khoa là rất cần thiết và có hiệu quả, tuy nhiên để thực hiện công việc này một cách thường quy còn gặp nhiều khó khăn, nếu có thể đưa ra những tiêu chí để chỉ định làm siêu âm tim cho bệnh nhi mà không bỏ sót dị tật sẽ rất hiệu quả cho việc điều trị và giảm bớt gánh nặng cho công việc siêu âm tim cho bệnh nhân. Hiện nay ở Việt Nam chưa có nghiên cứu sàng lọc nào ở trẻ sơ sinh cũng như trẻ sơ sinh nhập viện. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu: Xác định tỷ lệ mắc các dị tật tim bẩm sinh ở trẻ điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện Nhi Trung ương bằng siêu âm tim.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu: tất cả trẻ vào điều trị tại khoa Sơ sinh bệnh viện Nhi trung ương từ tháng 10 đến hết tháng 12/2010.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu: Tất cả trẻ vào điều trị tại khoa Sơ sinh
Tiêu chuẩn loại trừ: những trẻ chết trong vòng 12 giờ sau khi vào khoa mà chưa được xác định chẩn đoán. Những trẻ vào viện lần 2 mà lần 1 đã làm siêu âm tim.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trong 3 tháng 10 – 12/2010.
Tất cả bệnh nhân vào khoa đều được làm siêu âm tim phát hiện dị tật. Những bệnh nhân được xác định là có dị tật sẽ được siêu âm lại lần hai bởi một bác sĩ chuyên khoa tim mạch khác để thống nhất chẩn đoán. Những trẻ được xác định có dị tật sẽ được lấy vào một mẫu bệnh án thống nhất. Phương tiện nghiên cứu: chúng tôi sử dụng máy siêu âm tim Phillip HD11XE để siêu âm chẩn đoán. Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích