MÔ HìNH HUY ĐộNG GIáO VIÊN CắM BảN THAM GIA GIáO DụC SứC KHỏE TạI CáC BảN VùNG CAO HUYệN Võ NHAI – THáI NGUYÊN

MÔ HìNH HUY ĐộNG GIáO VIÊN CắM BảN THAM GIA GIáO DụC SứC KHỏE TạI CáC BảN VùNG CAO HUYệN Võ NHAI – THáI NGUYÊN

MÔ HìNH HUY ĐộNG GIáO VIÊN CắM BảN THAM GIA GIáO DụC SứC KHỏE TạI CáC BảN VùNG CAO HUYệN Võ NHAI – THáI NGUYÊN
HẠC VĂN VINH
TÓM TẮT
Mục tiêu: 1) Xây dựng mô hình lồng ghép y tế bản – giáo viên cắm bản truyền thông giáo dục sức khỏe vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các bà mẹ 15-49 có con< 5 tuổi; 2) Đánh giá kế quả bước đầu thực hiện mô hình tại các bản vùng cao của 4 xã thuộc huyện Võ Nhai-Thái Nguyên.
Phương pháp: Nghiên cứu can thiêp cộng đồng có nhóm đối chứng, kết hợp nghiên cứu định lượng với nghiên cứu định tính. Các chỉ số kiến thức, thái độ và
thực hành của bà mẹ về vệ sinh môi trường và sức khỏe sinh sản đã được thu thập ở cả 2 nhóm tai hai thời điểm trước và sau can thiệp, để tính chỉ số hiệu quả can thiệp của mô hình.
Kết quả nghiên cứu: 1)Đã xây dựng và thử nghiêm mô hình lồng ghép y tế bản – giáo viên cắm bản trong truyền thông giáo dục vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Tổ chức mô hình lồng ghép vào với Ban chăm sóc sức khoẻ ban đầu của xã. Nhiệm vụ của mô hình: Lồng ghép phối hợp y tế bản với giáo viên cắm= bản trong truyền thông giáo dục sức khoẻ nhằm cải thiện chất lượng và hiệu quả của hoạt động này tại các bản vùng cao. Mô hình gồm 16 giáo viên, 15 nữ và 1 nam đã được đào tạo tập huấn nâng cao năng lực, 3 lớp tập huấn cơ bản, mỗi lớp 1 tuần với các nội dung chuyên môn và 5 đợt tập huấn ngắn hạn, mỗi lớp 2 ngày. Giáo viên cắm bản đã phối hợp với y tế bản thực hiện công tác truyền thông giáo dục sức khỏe dưới sự giám sát hỗ trợ của hệ thống giám sát của y tế bản, ban giám hiệu, nhóm nghiên cứu 2) Kết quả đánh giá bước đầu của mô hình cho thấy có sự thay đổi về kiến thức, thái độ và thực hành của các bà mẹ về vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khỏe sinh sản của các bà mẹ. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05 giữa trước và sau can thiệp của nhóm can thiệp. Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp ở nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, chỉ số hiệu quả can thiệp (HQCT%) đạt mức cao (vệ sinh môi trường: (59,8%- 109,44%), chăm sóc sức khoẻ sinh sản (13,5% – 260,1%). Mô hình cũng được các bên liên quan và người hưởng lợi đánh giá cao và được sự chấp nhận của cộng đồng. Kết luận: 1) Mô hình huy động giáo viên cắm bản tham gia giáo dục sức khoẻ đã được xây dựng, thử nghiệm lồng ghép y tế bản-giáo viên giáo dục sức khoẻ tại các bản vùng cao huyện Võ Nhai- Thái Nguyên. Mô hình huy động nguồn lực sẵn có tại phương (Giáo viên cắm bản, y tế bản, có ban chỉ đạo, sự phối hợp giám sát hỗ trợ của ban chỉ đạo). Mô hình đã huy động được sự thamgia của cộng đồng; 2) Có sự thay đổi có ý nghĩa thống kê về chỉ số kiến thức, thái độ và thực hành của bà mẹ về vệ sinh môi trường và chăm sóc sức khoẻ sinh sản giữa trước và sau can thiệp. chỉ số hiệu quả can thiệp đạt mức cao. Mô hình cũng được các bên liên quan và người hưởng lợi đánh giá cao và được sự chấp nhận của cộng đồng

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment