Mô hình kháng thuốc kháng sinh của các tác nhân gây nhiễm trùng bệnh viện: xu hướng trong mấy năm qua
Trong vài thập kỷ qua, tỷ lê đề kháng và những mối liên quan của nó tới các bênh nhiễm trùng nạng đã tăng lên một cách báo đông. Trong số’ đó, tăng tỷ lê đề kháng của các vi khuẩn gây nhiễm trùng bênh viên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Ớ Mỹ, hàng năm có trên 2 triêu lượt nhiễm trùng bênh viên gây ra do các vi khuẩn đề kháng. Sự kháng thuốc này đã làm tăng tỷ lê mắc bênh, tỷ lê tử vong và chi phí điều trị. Cũng ở Mỹ, nhiễm trùng bênh viên đã góp phẫn hoặc là gây ra hơn 77.000 trường hợp tử vong hàng năm và chi phí cho các trường hợp này mất khoảng 5-10 tỷ đô la.
Qua nhiều kênh tư vấn về bênh tật, người ta đã kết luận rằng, cẫn phải có một mạng lưới giám sát, giáo dục cho nhân viên y tế và cộng đổng; phải có các nghiên cứu cơ bản theo hướng phát triển các phương pháp điều trị và phòng bênh mới để đối phó với kháng thuốc trong nhiễm trùng bênh viên. Bài tổng quan này sẽ tóm tắt những số liêu gẫn đây về một số mạng lưới giám sát hiên có và thảo luận về tẫm quan trọng của vấn đề kháng thuốc trong nhiễm trùng bênh viên.
Rất nhiều nghiên cứu đã ghi nhận xu thế’ nhiễm trùng bênh viên hiên nay có thể ảnh hưởng tới mô hình kháng thuốc. Ví dụ, nhóm giám sát kháng thuốc Quốc gia Hoa Kỳ đã thông báo rằng, từ năm 1975-1996, nhiễm trùng bênh viên ở đường hô hấp dưới hoạc nhiễm trùng máu đã tăng lên đáng kể; trong khi đó, nhiễm trùng tiết niêu hoạc nhiễm trùng ngoại khoa lại giảm đi. Từ năm 1990-1996, nhiễm trùng đường hô hấp dưới và nhiễm trùng máu chiếm khoảng 13-14%. Điều này đã làm nặng thêm tình trạng vốn đã nặng ở các bênh nhân nằm viên lâu ngày.
Những thay đổi về chủng loại vi khuẩn gây bênh trong nhiễm trùng nạng cũng có thể ảnh hưởng tới mô hình kháng thuốc; vì rằng, các loài vi khuẩn khác nhau có tính nhạy cảm khác nhau về mạt di truyền đối với thuốc kháng sinh. Tổ chức Nghiên cứu và Điều trị ung thư ở châu Âu, từ năm 1973-1994, đã ghi nhận những thay đổi về hình ảnh các tác nhân gây bênh trên bênh nhân ung thư: các vi khuẩn Gr (+) đã dẫn dẫn thay thế’ cho các vi khuẩn Gr (-) gặp phổ biến trước đây. Những thay đổi này xảy ra đổng thời với viêc phổ biến rộng rãi các cephalosporin thế’ hê III, ceftazidime và cefotaxime, trong khoảng thời gian này. Tổ chức này cũng ghi nhận rằng, ngay trong nhóm vi khuẩn Gr (+), các loài vi khuẩn cũng thay đổi. Sau một thời gian dài, các vi khuẩn Gr (+), đặc biêt là các liên cẫu tan máu p và nhóm Viridans đã thay thế’ cho vi khuẩn phổ biến nhất trước đây là tụ cẫu.
Chương trình Quốc tế giám sát kháng thuốc kháng sinh, SENTRY, cũng ghi nhận rằng, các tác nhân gây bênh có liên quan tới mô hình đề kháng. Theo Chương trình này (bắt đẫu từ năm 1997, có trên 70 địa điểm giám sát), kế’ hoạch theo dõi dài hạn mô hình kháng thuốc của các vi khuẩn gây nhiễm trùng bênh viên đã được thiết lập.
Bảng 1 cho thấy, tụ cẫu vàng, trực khuẩn mủ xanh và H. influenzae là các tác nhân gây viêm phổi phổ biến nhất trên các bênh nhân nằm viên ở vùng bắc Mỹ năm 1997; tiếp theo đó là Acinetobacter, tuy đứng ở vị trí thứ 10 trong số các tác nhân gây bênh nhưng lại đặc biệt quan trọng vì khả năng đề kháng rất cao của chóng víi nhiều loại kháng sinh. SENTRY cũng cho thấy, tụ cẩu vàng, E. coli, các tụ cẩu coagulase âm tính, trực khuẩn mủ xanh,
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích