Mô hình quản lý chống đông do bệnh nhân thay van tim tự thực hiện tại nhà theo tư vắn từ xa của bác sỹ
Mô hình chống đông tự thực hiện tại nhà có lợi cho bệnh nhân can uống thuốc chống đông suốt đời sau thay van tim cơ học. Nghiên cứu được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả mô hình bệnh nhân tự xét nghiệm INR và tự điều trị chống đông tại nhà theo tư vấn từ xa của bác sỹ với mô hình chống đông thường quy tại bệnh viện. Kết quả cho thấy so với mô hình thường qui, mô hình tự xét nghiệm INR và tự điều trị chống đông tại nhà tiện ích hơn, tăng tỷ lệ và thời gian đạt đích điều trị INR, giảm biến chứng chảy máu và huyết khối. Mô hình tự xét nghiệm INR và tự điều trị chống đông tại nhà ưu việt hơn hẳn về tiện ích và hiệu quả chống đông.
Sau thay van tim cơ học, bệnh nhân (BN) phải uống thuốc kháng vitamin K suốt đời để giữ chỉ số bình thường hoá quốc tế của tỷ lệ prothrombin (INR) 2,5 – 3,5 để tránh huyết khối van tim (khi INR < 2,5) và chảy máu (khi INR > 3,5). Một số nước hiện theo mô hình chống đông do BN tự thực hiện tại nhà (TXN/TĐT: tự xét nghiệm INR bằng máy CoaguChek cầm tay, tự điều trị thuốc chống đông) theo tư vấn từ xa của bác sỹ qua điện thoại và thấy có hiệu quả chống đông, giảm biến chứng, tiết kiệm, tăng hài lòng của BN cũng như thầy thuốc [8]. Tại Việt Nam, mổ tim mở ngày càng phát triển. Riêng bệnh viện Việt Đức, mỗi năm có 500 – 600 BN thay van tim cơ học. Tuy nhiên, quản lý chống đông thường qui hiện nay được áp dụng là BN uống thuốc chống đông tại nhà, đến bệnh viện để xét nghiệm INR và bác sỹ cho y lệnh uống thuốc kháng vitamin K. Mô hình này có hiệu quả chống đông kém với một số trường hợp huyết khối kẹt van tim phải mổ cấp cứu [1,2] và khoảng 40% BN đạt INR ở phạm vi điều trị [3].
Gần đây, nhờ có máy CoaguChek nên một số BN tự chống đông tại nhà theo tư vấn từ xa của bác sỹ qua điện thoại. Nghiên cứu này có mục tiêu so sánh hiệu quả của mô hình quản lý chống đông do bệnh nhân tự thực hiện tại nhà theo tư vấn từ xa của bác sỹ với mô hình thường qui đang áp dụng hiện nay.
II. ĐÓI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng nghiên cứu
1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn: BN người lớn sau thay van tim cơ học hai cánh st Jude Medical, tình nguyện tham gia nghiên cứu, đã uống thuốc chống đông kháng vitamin K (sintrom) > 6 tháng, đo INR bằng CoaguChek tại nhà hoặc tại đến bệnh viện và được bác sỹ tim mạch cho y lệnh uống thuốc chống đông.
2.2. Tiêu chuẩn loại trừ: bệnh nhân bị biến chứng tắc mạch huyết khối trước mổ, bệnh lý đông máu, không giám sát được khả năng dùng thuốc chống đông.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thiết kế: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng có đối chứng nhưng không ngẫu nhiên được thực hiện tại bệnh viện Việt Đức và viện Tim Mạch Việt nam từ 11/2009 đến 11/2011. Các BN có điều kiện kinh tế mua máy CoaguChek và que giấy thử được đưa vào mô hình TXN/TĐT; các BN không có máy CoaguChek thuộc mô hình quản lý chống đông TQ hiện đang áp dụng tại bệnh viện. Cỡ mẫu được tính theo công thức: N = (z1-a/2 V P0Q0 + Z1-pv PaQa)2 : (Pa – P0)2
Tỷ lệ số BN đạt đích INR điều trị là 40% theo mô hình [3] và mong muốn đạt 60% với mô hình TXN/TĐT (theo Sawicki là 58% [10]), ta có:
N = (1,96 V 0,4 xO.6+ 1,282 V 0,6 X 0,4) 2 : (0,6 – 0,4) 2«63 bệnh nhân.
Trong nghiên cứu này, mô hình chống đông thường quy gồm 200 BN và mô hình chống đông TXN/TĐT theo tư vấn từ xa của bác sỹ gồm 100 BN.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích