MÔ HÌNH TIÊN ĐOÁN KẾT QUẢ SINH THIẾT TUYẾN TIỀN LIỆT DỰA VÀO TUỔI, NỒNG ĐỘ PSA HUYẾT THANH, THĂM TRỰC TRÀNG VÀ THỂ TÍCH TUYẾN TIỀN LIỆT
MÔ HÌNH TIÊN ĐOÁN KẾT QUẢ SINH THIẾT TUYẾN TIỀN LIỆT DỰA VÀO TUỔI, NỒNG ĐỘ PSA HUYẾT THANH, THĂM TRỰC TRÀNG VÀ THỂ TÍCH TUYẾN TIỀN LIỆT
Nguyễn Vương Bảo Anh1, Nguyễn Tuấn Vinh2, Tô Quyền1, Nguyễn Xuân Toàn1, Lê Trung Trực1, Đỗ Anh Toàn2, Trang Võ Anh Vinh2, Thái Minh Sâm3, Ngô Xuân Thái4, Tô Quốc Hãn4
TÓM TẮT :
Đặt vấn đề: Ung thư tuyến tiền liệt (TTL) là một loại ung thư phổ biến thứ hai ở nam giới, tần suất ngày một tăng tại Việt Nam. Hiện tại chưa có mô hình nào giúp tiên đoán ung thư tuyến tiền liệt cho người Việt, chủ yếu sử dụng các mô hình của các nước Âu-Mỹ (da trắng, da đen). Nghiên cứu này đánh giá sự tương quan giữa giá trị nồng độ PSA huyết thanh, tuổi, thể tích và kết quả giải phẫu bệnh của sinh thiết tuyến tuyền liệt dưới hướng dẫn siêu âm qua ngã trực tràng (TRUS) nhằm xây dựng mô hình tiên đoán ung thư tuyến tiền liệt cho đàn ông người Việt Nam đến khám tại các bệnh viện trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh nhân đến khám tại bệnh viện Chợ Rẫy, Bình Dân, Nhân dân Gia Định nghi ngờ ung thư tuyến tiền liệt được chỉ định sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hưỡng dẫn TRUS từ tháng 01/2017 đến tháng 05/2020. Biến số nghiên cứu: tuổi, PSA huyết thanh, thăm khám trực tràng (DRE), thể tích TTL, kết quả giải phẫu bệnh lý (GPBL).
Kết quả: 1160 bệnh nhân thoả tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình: 72,26 ± 10,27 tuổi. Mỗi tuổi tăng khiến tăng nguy cơ sinh thiết TTL ác tính lên 3,5% (OR=1,035; p <0,001). Hầu hết bệnh nhân đến khám khi có triệu chứng (89,1%), đa số là do tiểu khó (44,9%). 419 bệnh nhân (36,1%) có kết quả DRE nghi ngờ ác tính. DRE nghi ngờ ác tính khiến khả năng ung thư TTL tăng gấp 5,7 lần so với không nghi ngờ (OR=5,685; p <0,001). Nồng độ PSA huyết thanh trung bình: 42,89 ± 39,41 ng/mL, trung vị: 23 ng/mL. Phần lớn bệnh nhân có PSA trong khoảng 4,00 – 19,99 ng/mL (44,6%) và ≥100 ng/mL (21,6%). Mỗi 1 ng/mL PSA tăng khiến xác suất sinh thiết TTL ác tinh tăng 4% (OR=1,040; p <0,001). Thể tích TTL trung bình: 53,73 ± 33,84 mL. Mỗi 1 mL TTL tăng khiến xác suất sinh thiết TTL ác tính giảm 1,2% (OR=0,988; p <0,001). Kết quả GPBL là: tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt (BPH) – 51,4%, Adenocarcinoma – 44,2%, tiền ác tính (AAH, PIN) – 2,9%, ASAP – 1,1%, Polyp biểu mô sợi – 0,1%, Lymphoma – 0,1%, Leiomyosarcoma – 0,1% và Carcinoma tế bào gai TTL – 0,1%. Số bệnh nhân có biểu hiện viêm TTL là 269 (23,2%), 259/269 thuộc nhóm kết quả GPBL lành tính. Chỉ 10 bệnh nhân ung thư TTL có kèm biểu hiện viêm TTL. Viêm cấp tính ảnh hưởng mạnh lên PSA hơn viêm mạn tính (p <0,001). Viêm dạng hạt không ảnh hưởng lên PSA so với không viêm. Áp dụng hồi quy logistic nhị phân xây dựng mô hình dự đoán kết quả sinh thiết TTL ác tính gồm: tuổi, PSA, DRE, thể tích TTL có độ chính xác lên đến 81,9%.
Kết luận: Tỷ lệ viêm TTL cao khiến giá trị chẩn đoán ung thư TTL của nồng độ PSA huyết thanh ở nam giới Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước Âu-Mỹ. Kết hợp PSA, tuổi, thể tích TTL và thăm khám trực tràng có khả năng dự đoán xác xuất sinh thiết TTL giúp cung cấp thêm thông tin cho thầy thuốc và bệnh nhân.
Nồng độ PSA huyết thanh và thăm khám trực tràng hiện vẫn là công cụ đầu tay giúp các bác sĩ chẩn đoán sơ bộ ung thư tuyến tiền liệt (TTL). Chẩn đoán xác định được thiết lập khi có kết quả giải phẫu bệnh sinh thiết TTL. Đối với nồng độ thấp, PSA là một chất chỉ điểm ung thư kém chính xác. Ngoài ung thư tuyến tiền liệt, PSA còn tăng trong tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt (BPH), bí tiểu cấp, nhiễm khuẩn đường tiết niệu dưới, viêm tuyến tiền liệt (cấp hay mạn), sau thủ thuật tác động lên tuyến tiền liệt hay sau sự phóng tinh. Các giá trị của PSA huyết thanh như độ nhạy, độ đặc hiệu, các giá trị tiên đoán âm/dương hiện nay chủ yếu dựa vào các trị số theo các tài liệu nước ngoài.
https://thuvieny.com/mo-hinh-tien-doan-ket-qua-sinh-thiet-tuyen-tien-liet-dua-vao-tuoi-nong-do-psa-huyet-thanh/