Mô hình tử vong ở Việt Nam: kết quả từ nghiên cứu điều tra nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn

Mô hình tử vong ở Việt Nam: kết quả từ nghiên cứu điều tra nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn

Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển dịch nhân khẩu học, với việc giảm tỷ lệ sinh và hai thập kỷ qua, tăng đáng kể số trẻ em sống sót [1, 2]. Xu thế về nhân khẩu học đã cho thấy số người có tuổi ngày càng tăng đồng thời gánh nặng bệnh tật đang dịch chuyển từ các bệnh lây truyền sang các bệnh không lây truyền [3]. Số liệu chính xác về mô hình tử vong sẽ là một
trong những yếu tố giám sát sự chuyển đổi này và góp phần vào việc hoạch định chính sách dựa  vào  bằng  chứng  nhằm  hạn  chế  những trường hợp tử vong có thể tránh được đối với người lớn. Tuy nhiên nguồn số liệu thống kê chính thức về tổng các trường hợp tử vong cũng như các nguyên nhân tử vong hiện nay ở Việt Nam chưa có [4]. Số liệu về tử vong cũng như nguyên nhân tử vong chỉ được thấy ở một số

nghiên cứu, với quần thể nghiên cứu nhỏ ở một số vùng địa lý nhất định [5, 6]. Số liệu này không đại diện cho Việt Nam vì cỡ mẫu nhỏ và chỉ thực hiện ở một số vùng địa lý.
Để giám sát dân số và nhân khẩu học ở Việt Nam, Tổng cục thống kê (GSO) hằng năm, từ năm 2000 đều tiến hành điều tra về thay đổi dân số (PCS) với cỡ mẫu đại diện cho toàn quốc [2]. Kết quả từ những đợt điều tra năm 2004, 2005, và 2006 cho thấy tử lệ tử vong toàn quốc được báo cáo theo hệ thống chính thống thấp, chỉ đạt khoảng 39 – 59 % [7]. Năm 2007, một nghiên cứu về tăng cường sự đầy đủ của số liệu tử vong đã được thực hiện, với việc áp dụng xác định nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn được thực hiện ở 6 tỉnh. Nghiên cứu này là bước tiếp theo của nghiên cứu trên, với việc  áp  dụng  rộng  ra  toàn  quốc  xác  định nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn. Mục tiêu:
1.    Xác định mức độ đầy đủ của số liệu tử vong hiện có.
2.    Xác định nguyên nhân tử vong (trên toàn quốc) bằng phương pháp phỏng vấn.
II.    ĐỐI  TƯỢNG  VÀ  PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Thiết  kế  nghiên  cứu:  nghiên  cứu  cắt ngang, tất cả các trường hợp tử vong trong vòng 1 năm (1/4/2006 đến 31/3/2007).
2.    Cỡ mẫu và chọn mẫu
Nghiên cứu dựa trên khung mẫu của điều tra PCS. Đơn vị mẫu (EA) được định nghĩa theo đơn vị mẫu của điều tra nhân khẩu học năm 1999. Mỗi đơn vị có khoảng 100 hộ gia đình. Năm 2007, tổng số có 3. 840 EA thuộc 64 tỉnh/thành trong cả nước, chiếm khoảng 2% tổng dân số được chọn vào mẫu nghiên cứu.
Nghiên cứu PCS được tiến hành vào tháng Tư năm 2007, các trường hợp tử vong được thu thập từ ngày 1/4/2006 đến 31/3/2007. Với mỗi trường hợp tử vong, PCS đều cung cấp giới, tuổi của người tử vong, ngày tử vong cũng như địa chỉ hộ gia đình của người tử vong. Theo địa chỉ đó, nghiên cứu viên sẽ phỏng vẩn người nhà của người tử vong theo bộ câu hỏi của Tổ chức y tế thế giới về xác định nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn. [8] Bộ câu hỏi đã được chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình của Việt Nam trên cơ sở kinh nghiệm nghiên cứu tại cơ sở thực địa dịch tễ học Ba Vì [5, 6].
Năm trường Đại học Y trong cả nước tham gia thực hiện nghiên cứu này, bao gồm Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Thái Nguyên, Đại học Y Huế, Đại học Y_Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Đại học Y Cần Thơ. Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, 64 tỉnh/thành được chia thành 5 địa bàn, tương ứng với các trường Y đã nêu tên ở trên. Viêc phỏng vấn nguyên nhân tử vong được thực hiện từ tháng 9/2007 đến tháng 4/2008 (Trừ hai tháng  Tết  Nguyên  đán,  Tháng  2  và  tháng 2/2008). Các nghiên cứu viên phỏng vấn các hộ gia đình và điền vào mẫu đã xây dựng trước. [8]. Các bác sĩ của 5 trường Đại học tiến hành chẩn đoán, phân loại nguyên nhân tử vong dựa theo mã phân loại quốc tế ICD, phiên bản X.
Số liệu thống kê về tử vong nói chung cũng như nguyên nhân tử vong nói chung ở Việt Nam hiện nay chưa đầy đủ, nghiên cứu này nhằm các mục tiêu: (1) Xác định mức độ đầy đủ của số liệu tử vong hiện có và (2) xác định nguyên nhân tử vong (trên toàn quốc) bằng phương pháp phỏng vấn. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: phỏng vấn 6798 người có quan hệ gần gũi với người đã mất bằng bộ câu hỏi chuẩn của WHO. Danh sách các trường hợp tử vong được lấy từ điều tra biến động dân số năm 2007 của Tổng cục Thống kê. Áp dụng phương pháp Preston – Coale để đánh giá mức độ đầy đủ của số liệu tử vong từ điều tra biến động dân số. Số liệu tử vong của mỗi nhóm tuổi và giới đều được hiệu chỉnh để tính toán độ đầy đủ của số liệu. Kết quả: độ đầy đủ của số liệu tử vong là 69% đối với nam giới và 54% đối với nữ. Tỷ lệ này thay đổi theo vùng địa lý. Có 10% số tử vong (đối với nam) và 15% (đối với nữ) không xác định được nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn. Nguyên nhân chính gây tử vong ở cả nam và nữ là các bệnh tim mạch. Các nguyên nhân tử vong tiếp theo khác nhau đối với nam và nữ. Tuy nhiên, ung thư và các bệnh không lây nhiễm vẫn là các nguyên nhân nổi trội đối với cả nam và nữ. Kết luận: có thể áp dụng phương pháp xác đinh nguyên nhân tử vong bằng phương pháp phỏng vấn ở Việt Nam mặc dù việc sử dụng số liệu tử vong từ các cuộc điều tra cũng có những hạn chế.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment