Mô tả đặc điểm dịch tễ học và các yếu tố nguy cơ lây nhiễm hiv/stis trên nhóm nam bán dâm đồng tính ở Hà Nội
Các nghiên cứu dịch tễ gần đây cho thấy mại dâm nam là một trong 3 nhóm có tỉ lệ nhiễm HIV cao bên cạnh nhóm mại dâm nữ và nghiện chích ma tuý. Tỉ lệ này ở Mỹ là 29.4% [9], ở Ấn độ là 22% [4], ở Uruguay là 21.5% [8] và ở Thái Lan là 13.6 % [1]. Các nghiên cứu chỉ ra rằng nguy cơ lây nhiễm HIV của nhóm mại dâm nam là do có quan hệ tình dục (QHTD) không an toàn với nhiều loại bạn tình [1,4,5,8].
Ở Việt nam, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về nữ bán dâm, nhưng trong trong 10 năm gần đây một số nghiên cứu đã đề cập đến nhóm mại dâm nam và thị trường mại dâm tuy nhiên những hiểu biết về nhóm này còn rất hạn chế [2, 3, 6, 10]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Anh Tuấn và cs năm 2004 tỉ lệ nam QHTD đồng giới đã từng bán dâm ở thành phố Hồ Chí Minh là 37% [6], trong một nghiên cứu khác trong tổng số 1270 nam thanh niên sử dụng
1
heroin ở Hà Nội có 79 đối tượng đã từng tham gia bán dâm nam [2]. Nghiên cứu của Khuất Thu Hồng và cs năm 2005 cho thấy người đồng tính ở Việt Nam thường xuyên tìm kiếm bạn tình là những nam giới bán dâm và những nam bán dâm này là lao động ngoại tỉnh, người thất nghiệp, sinh viên và những nam thiếu niên bỏ nhà [3]. Các kết quả cho thấy những nguy cơ lây nhiễm HIV/STIs mà nhóm nam bán dâm đồng tính (NBDĐT) gặp phải tuy nhiên việc tiếp cận nhóm này còn nhiều hạn chế bởi trong xã hội phương đông, quan hệ đồng tính và mại dâm vốn bị xem là trái đạo đức, là tệ nạn xã hội và bị kỳ thị. Đó chính là một cản trở lớn đối với các nam giới bán dâm trong việc thừa nhận hành vi của họ cũng như tiếp cận các dịch vụ y tế để hạn chế nguy cơ cho bản thân và bạn tình của mình [1, 3, 4, 8, 10].
Trong bối cảnh hội nhập và phát triển đô thị hiện nay thì số lượng NBDĐT ngày càng gia tăng và thị trường mại dâm nam có xu hướng phát triển mạnh ở các thành phố lớn. Vì thế cần có những hiểu biết đầy đủ về nhóm này để có những can thiệp hiệu quả. Để góp phần tìm hiểu rõ về đặc điểm xã hội, tình dục và những yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV/STIs của nhóm mại dâm nam ở Việt Nam, Đơn vị Nghiên cứu sức khỏe cộng đồng đã tiến hành một nghiên cứu trên nhóm NBDĐT tại Hà Nội trong thời gian từ 2007-2008 với 2 mục tiêu:
1. Mô tả các đặc điểm dịch tễ học nhóm NBDĐT trên địa bàn Hà Nội
2. Phân tích những yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV/STIs trên nhóm NBDĐT tại Hà Nội.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu: 110 nam giới từ 15 tuổi trở lên và tự nhận có QHTD với nam giới khác để nhận lợi ích về vật chất trong thời gian 12 tháng trước điều tra.
2.2 Địa điểm nghiên cứu: những điểm có tập trung NBDĐT trên địa bàn nội thành Hà Nội
2.3 Cỡ mẫu nghiên cứu: p q
n = Z2. pq
n Z(1 -a/2) d2
Trong đó: P là tỉ lệ nhiễm HIV là 15% (tương đương với tỷ lệ nhiễm HIV ước tính trong
nhóm đống tính nam ở khu vực Đông Nam Á), và tỉ lệ thấp nhất có thể chấp nhận được là 8% (tương đương với tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm đồng tính nam ở TP Hồ Chí Minh). Ước lượng quần thể nam giới bán dâm đồng tính ở Hà Nội là 200 người, dựa trên con số ước tính của Donn Colby và cộng sự (2003). a = 0.05 (two-tailed) và chỉ số hiệu ứng do thiết kế mẫu cụm là 1.5. Cỡ mẫu được tính toán từ công thức trên là 110.
Các nghiên cứu viên dành 4 tháng để tiếp cận các địa điểm có tập trung số lượng lớn NBDĐT, làm quen và tạo lòng tin với các cá nhân có liên quan và cá nhân trong nhóm đối tượng đích, và lập bản đồ các địa điểm và thời gian thường xuất hiện của nhóm này. Trên cơ sở đó mẫu nghiên cứu được phân theo các địa điểm và khoảng thời gian phù hợp để đảm bảo tính đa dạng và tính đại diện của mẫu nghiên cứu theo phân nhóm đối tượng, địa điểm và thời gian hoạt động bán dâm.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích