Mô tả đặc điểm lâm sàng ở trẻ tự kỷ trên 36 tháng tuổi và bước đầu nhận xét kết quả phục hồi chức năng ngôn ngữ

Mô tả đặc điểm lâm sàng ở trẻ tự kỷ trên 36 tháng tuổi và bước đầu nhận xét kết quả phục hồi chức năng ngôn ngữ

Mô tả lâm sàng 65 trẻ tự kỷ được chẩn đoán theo tiêu chuẩn chẩn đoán của Hội Tâm thần học Hoa Kỳ (DSM-IV). Sau đó phân loại và theo dõi can thiệp 3 tháng (n = 35) theo Thang đánh giá tự kỷ của Gilliam. Nội dung chương trình can thiệp dựa vào phương pháp phân tích hành vi ứng dụng (ABA). Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tỷ lệ trẻ trai mắc tự kỷ cao hơn nhiều so với trẻ gái: 8,3:1. Những dấu hiệu đặc trưng gợi ý chẩn đoán sớm giá trị: Khiếm khuyết kỹ năng không lời 100%; Chậm nói 100%; Không biết khởi xướng, duy trì hội thoại 100%. Sau 3 tháng phục hồi chức năng ngôn ngữ, khả năng giao tiếp của trẻ tự kỷ được cải thiện rõ rệt (p < 0,05) Có mối liên quan giữa mức độ chẩn đoán tự kỷ và hiệu quả can thiệp ( r = – 0,52).

Hiện nay, tự kỷ đang trở thành mối quan tâm lớn của nhiều gia đình và xã hội vì sự gia tăng của hội chứng này và vì ảnh hưởng đến nhiều mặt của quá trình phát triển của trẻ gây rối loạn chức năng từ rất sớm và tàn tật ở giai đoạn còn rất nhỏ. Hậu quả kéo dài suốt cuộc đời làm ảnh hưởng trầm trọng tới khả năng quan hệ xã hội, giao tiếp xã hội, khả năng tưởng tượng và hành vi của trẻ khiến trẻ không thích nghi được với cuộc sống. Các nghiên cứu gần đây cho thấy tỷ lệ mắc hội chứng tự kỷ tăng lên nhanh chóng. Theo thống kê của Trung tâm Kiểm soát Bệnh tật của Hoa Kỳ, tỷ lệ rối loạn tự kỷ (autism spectrum disorders ASD) ở trẻ em: 10-20/10.000 (1990); 62,6/10.000(2001); 1/150 (2005)[6]. Tại Trung Quốc (2006) có khoảng hơn 1,6 triệu trẻ tự kỷ và tỷ lệ còn có thể cao hơn nữa, khái niệm “dịch tự kỷ” đã xuất hiện tại quốc gia này [1]. Tại Việt Nam chưa có con số thống kê chính thức về tỷ lệ trẻ tự kỷ, theo nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Trung Ương thống kê giai đoạn 2000

2007, có 1.454 trẻ tự kỷ chiếm 0,7% tổng số trẻ đến khám tại bệnh viện, tỷ lệ trẻ tự kỷ khám năm 2007 cao gấp năm mươi lần so với năm 2000 [3]. Ở Việt Nam việc can thiệp phục hồi chức năng sớm cho trẻ tự kỷ còn ở giai đoạn sơ khai. Hầu hết trẻ tự kỷ được phát hiện và can thiệp rất muộn, thường xung quanh ba tuổi. Việc can thiệp muộn khiến cho kết quả phục hồi chức năng rất thấp. Bên cạnh đó, những mô hình can thiệp hiện nay tại các trung tâm PHCN chưa thống nhất và chuẩn hóa, thiếu công cụ đánh giá chuẩn.

Mục tiêu nghiên cứu:

1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng ở trẻ tự kỷ trên 36 tháng tuổi tại Trung tâm

PHCN bệnh viện Bạch Mai.

2. Nhận xét bước đầu kết quả phục hồi chức năng ngôn ngữ cho trẻ tự kỷ theo

thang đánh giá tự kỷ của Gilliam.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CứU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu gồm 65 trẻ tự kỷ đến khám và điều trị tại Trung tâm PHCN Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2009.

Tiêu chuẩn chọn bệnh nhi:

Nghiên cứu mô tả: – Trẻ được chẩn đoán tự kỷ theo tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ của Hội

Tâm thần học Hoa Kỳ (DSM-IV) [5]

Độ tuổi từ 3 đến dưới 18 tuổi.

Chẩn đoán mức độ tự kỷ theo Thang đánh giá tự kỷ của Gilliam (Gilliam Autism Rating scale – GARS) [7]

Dưới 80 điểm: Tự kỷ nhẹ.

Từ 80 đến 120 điểm: Tự kỷ trung bình.

Từ 120 điểm trở lên: Tự kỷ nặng.

Nghiên cứu can thiệp:- Thời gian can thiệp cho trẻ tự kỷ tối thiểu ba tháng.

Không kèm theo các khuyết tật khác.

Tiêu chuẩn loại trừ: Các trẻ có rối loạn phát triển giống tự kỷ nhưng không đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tự kỷ.

2.2. Phương pháp nghiên cứu:

Mục tiêu 1: (n = 65) Nghiên cứu mô tả cắt ngang, lấy mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.

Mục tiêu 2: (n = 35) Nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng tự đối chứng trước – sau điều trị. Trẻ được lấy theo số thứ tự lẻ (1,3,5…) từ mục tiêu một. Tiến hành can thiệp PHCN ngôn ngữ theo chương trình phân tích hành vi ứng dụng của tác giả Lovaas (ABA) [10] và đánh giá can thiệp bằng thang Gilliam [7].

Xử lý số liệu theo chương trình EPI INFO 6.04 và SPSS 13.0.

 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment