Mô tả giải phẫu động mạch mặt qua 20 phẫu tích

Mô tả giải phẫu động mạch mặt qua 20 phẫu tích

Hiểu biết về giải phẫu động mặt mặt (ĐMM; ĐM = động mạch) chiếm vị trí quan trọng cho sự thành công của phẫu thuật tạo hình – thẩm mĩ ở vùng mặt vì các phẫu thuật ở vùng này, từ nhỏ đến lớn, đều liên quan đến ĐMM hay các nhánh của nó. Các biến đổi giải phẫu của ĐMM và giải phẫu chi tiết từng nhánh của nó chưa được các giáo khoa giải phẫu [8] mô tả kĩ. Ở nước ta, một số vạt dựa trên các nhánh của ĐMM đã được sử dụng, nhu cầu về nghiên cứu giải phẫu ĐMM để phục vụ cho những ứng dụng này ngày càng tăng, nhưng cho tới nay chưa có nghiên cứu nào về giải phẫu ĐMM được thực hiện. Nghiên cứu này của chúng tôi về ĐMM là bước khởi đầu cho việc nghiên cứu một số vạt (vạt dưới cằm, vạt mũi – môi..) do các nhánh của ĐMM cấp máu và nhằm mục tiêu:
Mô tả các dạng giải phẫu của ĐMM trên người Việt Nam.
II.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
1.    Đối tượng
Nghiên cứu này được thực hiện trên 20 vùng mặt của 10 tử thi người Việt Nam trưởng thành đã được cố định bằng formalin. Vùng cổ của các tử thi này đã được phẫu tích từ trước cho mục đích học tập nhưng đoạn cổ của các ĐMM và vùng mặt vẫn còn nguyên vẹn.
2.    Phương pháp nghiên cứu
Rạch da mặt dọc theo đường đi của ĐMM theo hai đoạn: Từ chỗ ĐMM bắt chéo xương hàm dưới tới góc miệng và từ góc miệng tới mép mí trong. Lật da mặt, lần theo ĐMM từ chỗ nó bắt chéo xương hàm tới nơi tận cùng, cắt ngang các cơ bám da mặt để có thể nhận rõ đường đi của ĐMM và các nhánh của nó khi cần thiết. Lần tìm theo các nhánh của ĐMM: Nhánh môi trên được phẫu tích đến tận giữa môi để có thể thấy được sự tiếp nối của nó với nhánh bên đối diện và nhận xét về tính cân xứng giữa hai bên; nhận xét về độ lớn và đường đi của các nhánh má; phẫu tích nhánh mũi ngoài tới đường giữa để thấy được sự tiếp nối và tính cân  xứng  của  nó với nhánh  bên  đối  diện; Nhận xét sự tiếp nối (nếu có) của động mạch góc với các nhánh của động mạch mắt. Nhận xét về tính bù trừ giữa các ĐMM phải và trái. Đối chiếu đường đi của ĐMM với các mốc giải phẫu: Góc hàm dưới, góc miệng, rãnh mũi – môi và cánh mũi; đo các khoảng cách có ý nghĩa phẫu thuật (từ góc hàm dưới tới chỗ ĐMM bắt chéo bờ dưới xương hàm dưới, từ góc miệng tới ĐMM và từ bờ ngoài lỗ mũi tới ĐMM). Đo đường kính của ĐMM tại nơi nó bắt chéo xương hàm dưới; đo đường kính tại nguyên uỷ của các động mạch môi dưới, môi trên, mũi ngoài và góc.
Nhu cầu cung cấp thông tin chi tiết hơn về giải phẫu động mạch mặt ở người Việt Nam ngày càng tăng khi mà những vạt dựa trên các nhánh động mạch mặt được áp dụng ngày càng nhiều. Mục tiêu: Mô tả các dạng giải phẫu của động mạch mặt trên người Việt Nam. Đối tượng và phương pháp: Phẫu tích 20 vùng mặt để bộc lộ động mạch mặt và các nhánh của chúng. Kết quả: Các động mạch dưới cằm, môi dưới và môi trên có mặt ở tất cả các phẫu tích với đường kính trung bình lớn hơn 1,0mm, tức là đủ cho nối vi mạch hoặc tạo vạt đảo. Động mạch mũi ngoài chỉ có mặt ở 16 phẫu tích, với đường kính bằng hoặc hơn 1,0mm ở 10 phẫu tích; Động mạch góc có mặt ở 8 phẫu tích như một nhánh nhỏ. Động mạch mặt tận cùng như động mạch góc, động mạch mũi ngoài hay động mạch môi trên lần lượt ở 8, 9 và 3 phẫu tích. Kết luận: Đoạn mặt của động mạch mặt và các nhánh bên của nó tương đối hằng định nhưng thường biến đổi về tận cùng và type II chỉ gặp ở 40%. Động mạch dưới cằm có khả năng là một cuống mạch đáng tin cậy cho vạt dưới cằm nhưng vùng cấp máu của nó cần được làm rõ bằng các kỹ thuật thích hợp hơn.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment