Mô tả mối liên hệ giữa hoạt động thể lực và một số yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm trong nhóm 40-79 tuổi tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ năm 2010

Mô tả mối liên hệ giữa hoạt động thể lực và một số yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm trong nhóm 40-79 tuổi tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ năm 2010

Ít hoạt động thể lực (HĐTL) là một trong các yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh không lây nhiễm (BKLN). Nghiên cứu nhằm mô tả mối liên hệ giữa hoạt động thể lực và một số yếu tố nguy cơ của BKL trong nhóm 40 – 79 tuổi tại khu vực thành thị Việt Trì, Phú Thọ năm 2011. Kết quả cho thấy có sự khác biệt rõ rệt về mức độ hoạt động thể lực (tính theo phút/tuần) theo nhóm tuổi với p < 0,001. Hoạt động thể lực ở mức trung bình có tương quan với chỉ số huyết áp tâm trương ở nữ giới. Tỷ lệ người mắc 3 yếu tố nguy cơ của BKLN ở những người có hoạt động thể lực mức độ ít cao hơn so với nhóm mắc 3 yếu tố nguy cơ ở nhóm có hoạt động thể lực mức độ vừa và nặng. Phòng và điều trị BKLN cần phối hợp nhiều giải pháp. Hoạt động thể lực có thể được cân nhắc để coi như một loại “thuốc được kê đơn” trong việc điều trị BKLN.

Bệnh không lây nhiễm (BKLN) đang ngày càng trở thành gánh nặng bệnh tật lớn với các nước có thu nhập thấp và trung bình, trong đó có Việt Nam [1]. Các yếu tố nguy cơ chính của các BKLN bao gồm thói quen hút thuốc lá, uống rượu, dinh dưỡng không hợp lý và ít hoạt động thể lực (HĐTL). Nhiều quốc gia trên thế giới cũng như tại Việt Nam, đã có nhiều hoạt động phòng và kiểm soát các yếu tố nguy cơ về thói quen hút thuốc, uống rượu và dinh dưỡng không hợp lý [2, 3]. Mặc dù HĐTL thường xuyên được nhắc tới nhưng các thông tin truyền thông và các hướng dẫn vẫn còn mang tính chung chung và chưa chi tiết, cụ thể cho việc điều trị và phòng BKLN. Gần đây, nhiều nghiên cứu đã khẳng định vai trò của hoạt động thể lực trong việc phòng cũng như điều trị BKLN [2, 3, 4].
Mô hình thí điểm lồng ghép phòng và kiểm soát BKLN của Việt Nam được triển khai tại Việt Trì, Phú Thọ từ năm 2011. Các số liệu ban đầu về yếu tố nguy cơ của BKLN sẽ rất hữu ích cho việc xây dựng kế hoạch cũng như các hoạt động can thiệp. Do vậy, đề tài này được thực hiện với mục tiêu: “Mô tả mối liên hệ giữa hoạt động thể lực và một số yếu tố nguy cơ của bệnh không lây nhiễm trong nhóm 40-79 tuổi tại thành phố Việt Trì, Phú Thọ năm 2010”.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
Người dân trong độ tuổi từ 40 – 79 tuổi, hiện đang sinh sống tại 2 phường Tiên Cát và Nông Trang được lựa chọn ngẫu nhiên tham gia vào nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu bao gồm: (1) Những người không nằm trong độ tuổi trên; (2) Những đối tượng hiện đang điều trị các bệnh cấp tính; (3) Những người bị rối loạn tâm thần, rối loạn trí nhớ, bị câm, điếc…làm ảnh hưởng tới khả năng nghe, nói hoặc cung cấp thông tin; (4) Những phụ nữ đang mang thai hoặc đang cho con bú.
2. Cỡ mẫu và chọn mẫu
2.1. Cỡ mẫu: Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu ngẫu nhiên đơn theo công thức n = 1.962 p (1-p)/d2. Với độ tin cậy 95% và sai số ước lượng là 0,036, cỡ mẫu ước tính là 710 người, cộng thêm 10% bỏ cuộc thì cỡ mẫu khoảng 780 người. Trong nghiên cứu này chúng tôi đã tiến hành điều tra được 788 người.
2.2. Cách chọn mẫu:
Chọn 2 phường nội thành của Việt Trì dựa trên ý kiến của chuyên gia. Theo cách này thì Tiên Cát và Nông Trang được lựa chọn là địa điểm nghiên cứu. Danh sách của các tất cả người dân trong độ tuổi 40 – 79 tại 2 phường Tiên Cát và Nông Trang được thu thập bởi cộng tác viên y tế. Chọn ngẫu nhiên đơn 800 đối tượng thuộc danh sách trên.
3. Phương pháp: Nghiên cứu ngang mô tả theo các bước của phương pháp STEPwise 
 

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment