Mối liên quan của kiểu gen Virut Viêm gan B với một số xét nghiệm sinh hoá, miễn dịch trên bệnh nhân Viêm gan B mạn hoạt động
Trong số 57 bênh nhân (BN) viêm gan B mạn (VGBM) 4 BN nhiễm virut kiểu gen đơn A (10,5%), B (15,8%), C (38,6%) và D (7%); ngoài ra còn có 7 trường hợp nhiễm virut kiểu gen đồng/bội nhiễm khác là AB (1,75%), AC (12,3%), AD (1,75%), AF (3,5%), BC (1,75%), CD (3,5%) và CF (3,5%). BN nhiễm virut kiểu gen C liên quan chặt chẽ với tình trạng mang khang nguyên HBeAg. BN nhiễm virut kiểu gen C có tải lượng virut cao hơn có ý nghĩa so với kiểu gen B và kiểu gen đồng/bội nhiễm. Trong khi đó, BN nhiễm virut kiểu gen B lại có nồng độ HBV ADN thấp hơn BN nhiễm virut kiểu gen A và kiểu gen đồng/bội nhiễm; nồng độ enzym ALT ở BN nhiễm virut kiểu gen B cao hơn có ý nghĩa so với BN nhiễm virut kiểu gen D và kiểu gen phối hợp. ALT ở nhóm BN nhiễm virut kiểu gen C cũng cao hơn có ý nghĩa so với nhóm nhiễm virut kiểu gen D; nồng độ enzym AST ở nhóm BN nhiễm virut kiểu gen A thấp hơn có ý nghĩa so với nhóm nhiễm virut kiểu gen B và kiểu gen hỗn hợp
Hiên nay, trên thế giới khoảng 2 tỷ người đã nhiễm HBV, trong đó > 400 triệu người đang mang HBV mạn tính [1]. Tỷ lệ người
mang HBV mạn tính thay đổi theo khu vực địa lý [2]. Khoảng 15 – 40% trường hợp VGBM phát triển thành xơ gan, hoặc ung thư tế bào gan nguyên phát, trong đó khoảng 1/2 triệu người chết mỗi năm vì ung thư tế’ bào gan nguyên phát [2]. ở Việt Nam, tỷ lệ HbsAg (+) ở người khoẻ mạnh từ 10 – 20%, có nơi lên tới 26% [3]. Nhiễm HBV có thể gây nhiều thể bệnh khác nhau, từ người mang virut không triệu chứng đến viêm gan cấp tính tự hồi phục, viêm gan tối cấp tính, viêm gan mạn tính, xơ gan và có thể dẫn đến ung thư gan [4]. Nguyên nhân nào dẫn đến sự khác nhau đó
cho đến nay vẫn chưa thật sự được hiểu rõ.
Bên cạnh vai trò quan trọng của đáp ứng miễn dịch, vai trò của bản thân virut (đột biến gen và kiểu gen) đang ngày càng được quan tâm.
Cho đến nay, 8 kiểu gen HBV đã được phát hiện dựa trên sự khác biệt 8% nucleotid giữa các kiểu gen và được ký hiệu từ A đến H [5]. Như vậy, khi các BN được phát hiện có HBsAg (+), không có nghĩa là họ đều nhiễm cùng một chủng HBV, mà thực chất là họ có thể nhiễm nhiều chủng HBV và có thể là nhiều kiểu gen, dưới kiểu gen khác nhau.
Để góp phần làm phong phú thêm bản đồ phân bố’ kiểu gen của HBV trên BN VGBM hoạt động, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài này với các mục tiêu:
– Đánh giá tỷ lệ phân bố các kiểu gen HBV trên BN VGBM hoạt động.
– Tìm hiểu mối liên quan giữa kiểu gen HBV với một số’ xét nghiệm sinh hoá và miễn dịch.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất