Mối liên quan giữa chỉ định mổ lấy thai với mức độ tăng huyết áp trong tiền sản giật

Mối liên quan giữa chỉ định mổ lấy thai với mức độ tăng huyết áp trong tiền sản giật

Tiền sản giật (TSG) là hội chứng bệnh lý hết sức phức tạp, thường xảy ra vào ba tháng cuối của thai kỳ. Tỷ lệ mắc bệnh thay đổi tùy theo từng khu vực trên thế giới. Theo số liệu của tổ chức Y tế Thế giới (WHO, 2000) cho thấy, có khoảng 6 – 8% tổng số phụ nữ có thai bị mắc chứng TSG [8]. Ở Việt Nam (1998), ước tính tỷ lệ TSG từ 4 – 5% [1].
TSG có thể gây ra những biến chứng nặng nề cho mẹ như: sản giật, rau bong non, xuất huyết não – màng não, phù phổi cấp, hôn mê,… cũng như cho thai như: thai kém phát triển trong tử cung, thai chết lưu, đẻ non, tử vong chu sinh.
Trong những năm vừa qua, tỷ lệ đình chỉ thai nghén bằng mổ lấy thai tại BVPSTƯ ngày càng gia tăng: năm 1998 – 2000, tỷ lệ mổ lấy thai chiếm 90,5% [4] trong tổng số các trường hợp có chỉ định đình chỉ thai; năm 2003 – 2005 tỷ lệ này là 93,7% [2] và năm 2007 là 96,19% [3]. Tăng huyết áp (THA) là triệu chứng chính, xuất hiện
Mục tiêu: Phân tích các chỉ định mổ lấy thai và các yếu tố liên quan đến tăng huyết áp trên thai phụ tiền sản giật.
I.    ĐỐI   TƯỢNG   VÀ   PHƯƠNG   PHÁP NGHIÊN CỨU
Các thai phụ có tuổi thai từ 28 tuần trở lên, được chẩn đoán bị TSG, SG; nhập viện, theo dõi và điều trị tại bệnh viện Phụ sản Trung ương trong năm 2008. Loại trừ: Các thai phụ có các bệnh kèm theo như: bệnh tim, bệnh gan, bệnh Basedow, bệnh đái tháo đường, thiếu máu, rau tiền đạo.
Phương pháp nghiên cứu là hồi cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu nghiên cứu được xác định dựa trên công thức lấy mẫu lâm sàng. Xác định cỡ mẫu cho ước lượng tỷ lệ với công thức sau đầu tiên trong bệnh lý TSG. Dựa vào triệu chứng
này để phân độ TSG [6]. Bên cạnh đó, người ta còn cho rằng THA là một yếu tố quan trọng để
Trong đó:
N = Z2 (1 – /2) x pq/d2 tiên lượng bệnh lý TSG.
N: Số cá thể của mẫu nghiên cứu; : Mức sai
số ấn định là 5%; Z: Hệ số giới hạn tin cậy. Tương ứng với  = 0,5 là 1,96; p: Tỷ lệ mổ lấy thai trong các thai phụ TSG. Theo nghiên cứu của Nguyễn Công Nghĩa (2001) là 0,4266 [4]; d = e x p. Trong đó, e là sai số tỷ lệ ước lượng (e = 0,15); Với công thức trên, N được xác định có giá trị là 229 thai phụ được mổ lấy thai. Trong nghiên cứu này có 234 thai phụ.
Mục tiêu: Phân tích các chỉ định mổ lấy thai và các yếu tố liên quan đến tăng huyết áp trên thai phụ tiền sản giật. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các thai phụ có tuổi thai từ 28 tuần trở lên, được chẩn đoán bị TSG, SG; nhập viện, theo dõi và điều trị tại bệnh viện Phụ sản Trung ương trong năm 2008. Loại trừ: Các thai phụ có các bệnh kèm theo như: bệnh tim, bệnh gan, bệnh Basedow, bệnh đái tháo đường, thiếu máu, rau tiền đạo. Phương pháp nghiên cứu là hồi cứu mô tả cắt ngang. Kết quả: Tỷ lệ mổ lấy thai trong nhóm thai phụ THA giai đoạn 2 (96,72%) cao hơn so với nhóm thai phụ THA giai đoạn 1 (83,33%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR = 5,9; p = 0,007 < 0,05). Thai phụ bị TSG có triệu chứng THA ở độ hai có nguy cơ chỉ định mổ lấy thai cao gấp 32,463 lần so với thai phụ bị TSG có triệu chứng THA ở độ một (p < 0,05). Kết luận: Khi thai phụ bị TSG đồng thời THA độ 2 có nguy cơ mổ lấy thai cao gấp 32,46 lần so với các thai phụ bị TSG khác.

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment