Mối liên quan giữa hút thuốc và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính trong công nhân một số nhà máy công nghiệp ở Hà Nội
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một bệnh khá phổ biến, tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong ngày càng gia tăng, hút thuốc (bao gồm cả thuốc lá, thuốc lào) là nguy cơ chủ yếu dẫn đến bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Mục tiêu: (1) Xác đinh tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính. (2) Mô tả mối liên quan giữa hút thuốc với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 837 đối tượng là công nhân có độ tuổi > 40 tuổi tại ba nhà máy công nghiệp (nhà máy thuốc lá Thăng Long, nhà máy phân lân Văn Điển, nhà máy Sơn tổng hợp) ở Hà Nội. Kết quả và kết luận: Nghiên cứu đã cho thấy tỷ lệ hút thuốc chung trong quần thể nghiên cứu là 51,7%, nam giới hút thuốc chiếm 87,91%. Tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính chung của quần thể nghiên cứu là 3,58%, tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính ở nhóm hút thuốc là (5,77%) cao hơn nhóm không hút thuốc (1,24%) với OR = 4,89 [1,81 -16,49, với 95% CI). Tỷ lệ người mắc các triệu chứng ho, khạc đờm ở nhóm hút thuốc cao hơn nhóm không hút thuốc có ý nghĩa thống kê vớ’ P < 0,05 và tăng lên theo mức độ hút thuốc.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (BPTNMT) (Chronic Obstructive Pulmonary Disease: COPD) là một bệnh khá phổ biến hiện nay. Các nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy tỷ lệ mắc COPD khá cao ở nhiều nước công nghiệp như ở Hoa Kỳ năm 1995 khoảng 14 triệu người mắc và tăng hơn so với năm 1982 là 41,5%, ở Pháp năm 1996 có khoảng 2,5 triệu người mắc [5]. Hút thuốc (bao gồm cả hút thuốc lá, thuốc lào) là nguyên nhân chính gây bệnh. Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ hút thuốc cao trên thế giới và khu vực. Kết quả điều tra y tế quốc gia của Việt Nam công bố 2003 cho thấy tỷ lệ hút thuốc ở nông thôn (56,4%) cao hơn thành thị (55,1%) tỷ lệ hút thuốc ở nam giới là 56,1% và nữ giới là 1,8% [1]. Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào một số nhà máy công nghiệp ở Hà Nội nhằm mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
2. Mô tả mối liên quan giữa hút thuốc với bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại 3 nhà máy công nghiệp ở Hà Nội bao gồm: Nhà máy thuốc lá Thăng Long, nhà máy phân lân Văn Điển, nhà máy
Sơn tổng hợp.
2. Đối tượng nghiên cứu
– Toàn bộ công nhân có tuổi đời > 40 tuổi của ba nhà máy đều được đưa vào nghiên cứu, phỏng vấn theo bộ câu hỏi điều tra phát hiện COPD để tìm ra các đối tượng có nguy cơ mắc bệnh, khám lâm sàng và đo chức năng hô hấp để xác định bệnh.
– Đối tượng hút thuốc bao gồm cả hút thuốc lá và hút thuốc lào được xác định theo tiêu chuẩn quy định của Tổ chức Y tế Thế giới:
Người hút thuốc lá là người hút từ 100 điếu thuốc lá trở lên trong cả quãng đời đã qua và hiện tại ngày nào cũng hút và hút từ 7 điếu thuốc lá trở lên trong một tuần.
Người đã cai thuốc (là người có hút thuốc nhưng đã bỏ), thời gian bỏ phải được > 6 tháng tính đến ngày điều tra.
Người không hút thuốc là người chưa bao giờ hút bất kỳ loại thuốc nào (thuốc lá, thuốc lào) hoặc nếu đã thử hút thuốc thì chưa bao giờ hút hàng ngày và tổng số điếu thuốc đã hút < 100 điếu thuốc lá trong toàn bộ quãng đời đã qua hoặc hút dưới 7 điếu trong 1 tuần.
Người hút thuốc lào được xác định theo tiêu chuẩn qui đổi từ thuốc lào ra thuốc lá cụ thể là:
Hút 4 điếu thuốc lào hoặc 2gr thuốc lào tương đương với 1 điếu thuốc lá. Như vậy 100 gram thuốc lào tương đương với 50 điếu thuốc lá.
Sau khi đã quy đổi từ thuốc lào ra thuốc lá, các tiêu chuẩn xác định người hút thuốc được áp dụng theo qui định đối với thuốc lá.
Mức độ hút thuốc được tính theo tỷ lệ bao/năm:
Số bao thuốc hút/ngày x số năm hút = số bao/năm.
– Đối tượng bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính được xác định thông qua các bước sau đây:
Phỏng vấn theo bộ câu hỏi và khám lâm sàng để sàng lọc ra các đối tượng nghi ngờ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính.
Nhóm đối tượng nghi ngờ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính được đo CNHH để phát hiện các đối tượng có rối loạn thông khí tắc nghẽn.
Nhóm đối tượng có rối loạn thông khí tắc nghẽn được tiến hành làm test giãn phế quản để xác định những đối tượng có rối loạn thông khí tắc nghẽn không hồi phục và những đối tượng này được chẩn đoán xác định là mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính.
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính được áp dụng theo tiêu chuẩn của GOLD 2003: FEV1 / VC(chỉ số Tiffeneau) hoặc FEV1/ FVC (chỉ số Gansler) < 70% sau test giãn
phế quản.
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang
Phỏng vấn được thực hiện theo bộ câu hỏi của Tổ chức Y tế Thế giới và Hội lồng ngực Mỹ khuyến cáo, đã được dịch và chuẩn hoá Tiếng Việt áp dụng trong các điều tra để sàng lọc các đối tượng nghi ngờ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính ở Việt Nam và do nhóm nghiên cứu tiến hành điều tra và giám sát.
Khám lâm sàng được thực hiện bởi các bác sỹ chuyên khoa hô hấp bệnh viện Bạch Mai.
Chức năng thông khí được đo bằng máy Spiro- analyser ST 300 của hãng Fukada – Nhật Bản do các bác sỹ và kỹ thuật viên khoa Hô hấp bệnh viện Bạch Mai thực hiện.
Test giãn phế quản được tiến hành với Salbu- tamol dạng phun liều định chuẩn, liều sử dụng cho một lần làm test là 400 microgam.
Số liệu được xử lý bằng phần mềm STATA, các Test thống kê so sánh được sử dụng đối với những chỉ tiêu không tham số là Test c2.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích