Mối liên quan giữa một số chỉ số đông máu với tai biến chảy máu ở bệnh nhân sau mổ tim dưới tuần hoàn ngoài cơ thể
Chảy máu sau mổ là một trong những biến chứng thường gặp nhất trong phẫu thuật tim dưới tuần hoàn ngoài cơ thể (THNCT). Tai biến chảy máu sau mổ tim có nhiều nguyên nhân liên quan đến hệ thống THNCT, nguy cơ riêng của từng bệnh nhân (rối loạn đông máu bẩm sinh hoặc mắc phải), loại can thiệp và chất lượng phẫu thuật. THNCT gây rối loạn đông máu do pha loãng máu, hấp phụ các protein đông máu huyết tương lên các bề mặt nhân tạo, hoạt hoá đông máu bằng cả hai con đường nội sinh và ngoại sinh, hoạt hoá quá trình tiêu sợi huyết, đồng thời giảm cả số lượng và chức năng tiểu cầu [10].
Một số đặc tính chung của can thiệp cũng làm tăng nguy cơ chảy máu sau mổ như thời gian sử dụng THNCT kéo dài, độ phức tạp của phẫu thuật, hạ nhiệt, ngừng tuần hoàn. Một số can thiệp có thể gây nguy cơ chảy máu nhiều như thay van tim cơ học (sử dụng nhiều hệ thống thu hồi máu), phẫu thuật động mạch chủ (thành động mạch dễ bị tổn thương), phối hợp phẫu thuật bắc cầu mạch vành và thay van tim [4]. Đa số bệnh nhân có thể thích nghi được với những biến đổi trong THNCT và tự điều chỉnh nhanh chóng ở giai đoạn sau mổ. Tuy nhiên khoảng 10 – 20 % bệnh nhân có chảy máu bất thường sau mổ đặt bệnh nhân trước một nguy cơ phải truyền máu và 3 – 5% trường hợp phải mở lại xương ức [4]. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu:
1. Tìm hiểu sự biến đổi một số xét nghiệm đông máu ở bệnh nhân sau mổ tim dưới THNCT.
2. Nghiên cứu liên quan giữa thời gian THNCT, xét nghiệm đông máu với chảy máu sau mổ.
I. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là 252 bệnh nhân mổ tim dưới THNCT tại bệnh viện Việt Đức trong thời gian 12 – 2005 đến 8 – 2006 do các bệnh tim bẩm sinh (thông liên thất, thông liên nhĩ, tứ chứng Fallot…) và mắc phải (bệnh van tim và bệnh mạch vành).
Loại trừ khỏi nghiên cứu các bệnh nhân có tiền sử bệnh chảy máu hay xét nghiệm trước mổ có một trong các biểu hiện sau: huyết sắc tố <100 g/l; số lượng tiểu cầu < 150 x 109/l; PT
(prothrombin time) < 70%; APTT bệnh/chứng (activated partial thromboplastin time) > 1,25; fibrinogen < 1 g/l.; creatinin huyết thanh >110 ìmol/l.
Các bệnh nhân không dùng các thuốc chống đông và chống ngưng tập tiểu cầu trong vòng 1 tuần trước mổ.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang có đối chứng.
Các biến số nghiên cứu:
– Các xét nghiệm đông máu: PT, APTT, fi- brinogen, số lượng tiểu cầu.
– Các thông số thu thập trong và sau cuộc mổ: thời gian THNCT, thời gian kẹp động mạch chủ (ĐMC); lượng dẫn lưu 24 giờ đầu sau mổ; chảy máu bất thường (khi lượng dẫn lưu > 3 ml/kg/giờ trong 3 giờ đầu sau mổ).
Thời điểm xét nghiệm:
– Các xét nghiệm trước mổ được thực hiện 1 ngày trước khi mổ.
– Các xét nghiệm sau mổ được thực hiện khi ca mổ kết thúc, ngay sau mũi khâu cuối cùng.
Tiến hành:
– Đếm số lượng tiểu cầu với 1ml máu tĩnh mạch, chống đông bằng EDTA, được thực hiện trên máy đếm tế bào tự động XT – 1800i và hoá chất của hãng Sysmex (Nhật Bản).
– Xét nghiệm đông máu với 2 ml máu tĩnh mạch, chống đông bằng natri citrat 3,8% (tỷ lệ 1 thể tích chống đông/9 thể tích máu) được thực hiện trên máy phân tích đông máu tự động CA – 1500 của hãng Sysmex (Nhật bản) và sinh phẩm của hãng Dade Berhinger (Đức).
Các xét nghiệm đều được tiến hành ngay trong vòng 1 giờ sau khi lấy máu.
– Các kết quả định lượng được X ± SDthể hiện bằng giá trị trung bình và độ lệch chuẩn
Số liệu thu thập được sẽ được nhập, xử lý trên chương trình SPSS10.0.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích