MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẬN LÂM SANG VỚI KẾT QUẢ HÌNH ẢNH PET/CT Ở BỆNH NHÂN SAU NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP
MỐI LIÊN QUAN GIỮA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CẬN LÂM SANG VỚI KẾT QUẢ HÌNH ẢNH PET/CT Ở BỆNH NHÂN SAU NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP
Phạm Trường Sơn1, Đặng Văn Hưng2, Lương Công Thức3
1 Viện tim mạch, Bệnh viện Trung Ương quân đội 108
2 Học viện Quân y
3 Bệnh viện quân y 103
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá mối liên quan giữa một số đặc điểm cận lâm sàng với kết quả hình ảnh PET/CT ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim cấp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bao gồm 45 bệnh nhân (BN) sau nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) được điều trị tại Viện Tim mạch, Bệnh viện TƯQĐ 108, thời gian từ năm 2011 đến năm 2015. Các BN được tiến hành thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và làm xạ hình tưới máu cơ tim. Sau đó, tiến hành chụp PET/ CT sử dụng 18F-FDG đánh giá cơ tim còn sống cho những BN có kết quả là khuyết xạ cố định trên XHTMCT và chụp động mạch vành cho các bệnh nhân có chỉ định. Kết quả: Không có sự khác biệt đáng kể cả 3 chỉ số chức năng thất trái (EFsp), đường kính thất trái tâm trương (EDV), đường kính thất trái tâm thu (ESV) ở 3 nhóm tổn thương cơ tim đông miên, nhóm tổn thương dạng sẹo cơ tim và nhóm tổn thương hỗn hợp. Không có sự khác biệt về tỷ lệ BN có vùng cơ tim dạng đông miên ở nhóm tắc hoàn toàn ĐMV có tuần hoàn bàng hệ (THBH) và nhóm tắc hoàn toàn ĐMV không có THBH. Không có sự khác biệt về tỷ lệ BN có vùng cơ tim dạng sẹo ở nhóm tắc hoàn toàn ĐMV có THBH và nhóm tắc hoàn toàn ĐMV không có THBH. Kết luận: Chưa thấy mối liên quan giữa mức độ rối loạn chức năng thất trái trên siêu âm tim với sự sống còn của cơ tim được đánh giá trên hình ảnh chụp PET/CT. Các mức độ và đặc điểm tổn thương trên chụp ĐMV không liên quan đến tình trạng cơ tim còn sống được đánh giá trên PET/CT.
Đối với các bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) cấp đến muộn (> 48 giờ) việc can thiệp thường quy không giúp giảm biến cố tim mạch nên chưa được chỉ định trong các khuyến cáo [1]. Tuy nhiên một số nghiên cứu cho thấy ở các bệnh nhân này nếu các phương pháp đánh giá cho thấy cơ tim còn sống thì việc tái tưới máu vẫn cải thiện chức năng thất trái. Vì vậy việc đánh giá tình trạng cơ tim ở BN sau NMCT để đưa ra biện pháp điều trị thích hợp là hết sức cần thiết. Tình trạng tổn thương sau NMCT cấp có thể là cơ tim đông miên (hibernating) và sẹo cơ tim (scar). Các bệnh nhân có tình trạng cơ tim đông miên nên được điều trị tái tưới máu (nong, đặt stent hoặc phẫu thuật cầu nối chủ vành) nhằm cải thiện chức năng thất trái, giảm tỉ lệ tai biến và tử vong [2]. Các bệnh nhân có tổn thương sẹo cơ tim nên điều trị nội khoa tích cực. Hiện nay có nhiều kỹ thuật có thể đánh giá được khả năng sống của cơ tim như: siêu âm tim gắng sức sử dụng Dobutamin, chụp cộng hưởng từ tim mạch, xạ hình tưới máu cơ tim Tc99m –MIBI sửdụng nitroglycerin và PET/CT. Trong đó PET/CT sử dụng 18 FDG (18 FDG-PET/CT) cho phép đánh giá khả năng còn sống của cơ tim, phân biệt tình trạng cơ tim đông miên còn khả năng hồi phục với sẹo cơ tim (scar) sau nhồi máu cơ tim [3]. Nó được coi là phương pháp chuẩn để đánh giá khả năng phục hồi vận động và chức năng thất trái sau can thiệp tái tưới máu động mạch vành (độ nhạy trên 90%, giá trị dự đoán âm tính gần 90%). Tuy nhiên, tại Việt Nam cũng như trên thế giới vai trò PET/CT đánh giá cơ tim còn sống sau NMCT cấp chưa được nghiên cứu nhiều nhất là mối liên quan với các thông số cận lâm sàng. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm mục đích: “tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm siêu âm và hình ảnh chụp động mạch vành với kết quả hình ảnh PET/CT trong đánh giá cơ tim còn sống ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim cấp”.