MỐI LIÊN QUAN GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT CỤC NỘI VIỆN CỦA BỆNH LÝ TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM

MỐI LIÊN QUAN GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT CỤC NỘI VIỆN CỦA BỆNH LÝ TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM

MỐI LIÊN QUAN GIỮA NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT CỤC NỘI VIỆN CỦA BỆNH LÝ TRÀN DỊCH MÀNG NGOÀI TIM
Hoàng Văn Sỹ1,2, Nguyễn Minh Kha1,2, Trần Nguyễn Phương Hải2, Đặng Tường Vi1, Bùi Thị Kiều Nga2, Nguyễn Nhật Tài1
1 Đại học Y dược TP. HCM
2 Bệnh viện Chợ Rẫy
Nội dung chính của bài viết
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nguyên nhân của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim rất đa dạng. Hiện nay tại Việt Nam chưa có nhiều công trình nghiên cứu về nguyên nhân và kết cục nội viện của bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim. Mục tiêu: Khảo sát mối liên quan nguyên nhân và kết cục nội viện ở  bệnh nhân tràn dịch màng ngoài tim. Đối tượng: Những bệnh nhân có bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim được chẩn đoán tại bệnh viện Chợ Rẫy trong giai đoạn từ tháng 1 năm 2010 đến tháng 12 năm 2020. Phương pháp nghiên cứu: cắt ngang mô tả, hồi cứu. Kết quả: Trong 10 năm, thu nhận 285 bệnh nhân có bệnh lý tràn dịch màng ngoài tim, trong đó có 248 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình dân số nghiên cứu là 52,3 ± 18,0, trong đó nam giới có 153 bệnh nhân, chiếm 61,7%. Nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim thường gặp nhất lần lượt là do ác tính (48,4%), lao (21,0%), vô căn (10,5%) và tự miễn (7,3%), trong đó nguyên nhân do nhiễm trùng (viêm mủ màng ngoài tim) ít gặp với 4,8%. Trong nhóm tràn dịch màng ngoài tim do ác tính, nguyên nhân thường gặp là ung thư phổi (52,5%), u trung thất xâm lấn (13,3%) và có 20,8% trường hợp chưa tìm được ổ nguyên phát. Chỉ ghi nhận 25,8% bệnh nhân có tiền căn bệnh lý ác tính trong nhóm tràn dịch màng ngoài tim do ác tính. Tỉ lệ tế bào học dịch màng tim bất thường gặp trong nguyên nhân ác tính là 24,5%. Màu sắc đại thể chủ yếu là đỏ máu (64,4%), có sự khác biệt giữa hai nhóm nguyên nhân (p=0,0001). Kết cục xấu nội viện gồm tử vong hoặc nặng xin về giữa hai nhóm nguyên nhân ác tính và không do ác tính không có sự khác biệt (p = 0,12), nhưng tỉ lệ chèn ép tim cấp trong nhóm ác tính cao hơn nhóm không do ác tính với tỉ lệ lần lượt 30% và 18,0%, p = 0,026. Kết luận: Nguyên nhân tràn dịch màng ngoài tim thường gặp nhất là do ác tính, trong đó ung thư phổi chiếm ưu thế. Tuy kết cục nội viện là không khác biệt nhưng tỉ lệ chèn ép tim cấp cao hơn ở nhóm ác tính so với nhóm không ác tính.

Tràn dịch màng ngoài tim là tình trạng tích tụdịch  trong  khoang  màng  tim  bất thường  trong khoang  màng  ngoài  tim,  bình  thường  khoang màng ngoài tim chứa khoảng 10-50 mL dịch[1]. Các  nguyên  nhân  được  biết  đến  gồm  nhiễm trùng,  ác tính, vô căn, suy tim, và nguyên nhân chuyển  hóa (suy giáp, hội  chứng ure huyết cao) cũng như tổn thương màng ngoài tim (ví dụsau nhồi máu cơ tim, sau phẫu  thuật  mởlồng  ngực hoặc  chấn thương,  xạtrị,  bệnh  lý  mô  liên  kết (bệnh  lý  tựmiễn).  Tuy  nhiên,  một  sốđáng kể trường  hợp  tràn  dịch màng ngoài tim là vô căn, với tỉlệkhoảng 15-20%[1]. Các dữliệu vềtần suất của các nguyên nhân khác nhau và đặc  biệt,  nhóm  nguyên  nhân  ác tính nguyên phát hoặc di căn vẫn còn khan hiếm và  thay  đổi  trong  một  sốnghiên cứu  nhỏđã được  công  bố.  Chẩn  đoán  chính  xác  nguyên nhân  tràn  dịch  màng  ngoài  tim  không  chỉquan trọng trong quản lý mà còn đánh giá dựhậu cho các bệnh nhân [2]. Hiện nay tại Việt Nam, rất ít các  công  trình  nghiên  cứu  vềtần  suất  nguyên nhân  của  bệnh  nhântràn  dịch  màng  ngoài  tim, cũng như mối  liên  quan  giữa  nguyên  nhân  gây tràn  dịch  màng  ngoài  và  kết  cục  nội  viện  của bệnh  nhân.Do đó, chúng tôi tiến  hành  nghiên cứu này với mục tiêu khảo sát mốiliên quan giữa nguyên nhân và kết cục nội viện của những bệnhnhân tràn dịch màng ngoài tim

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment