Mối tương quan giữa hành vi tăng cường sức khỏe và mức đường huyết ở người bệnh đái tháo đường typ 2 bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội

Mối tương quan giữa hành vi tăng cường sức khỏe và mức đường huyết ở người bệnh đái tháo đường typ 2 bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội

Mô tả hành vi tăng cường sức khoẻ và tình trạng kiểm soát đường huyết ở người bệnh đái tháo đường type 2, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. (2) Mô tả mối tương quan giữa hành vi tăng cường sức khoẻ và tình trạng kiểm soát đường huyết ở người bệnh đái tháo đường type 2, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 92 người bệnh. Két quả: Điểm trung bình của việc thực hiện hành vi tăng cường sức khỏe ở người bệnh đái tháo đường type 2 là 2,8 ± 0,2. 55,4% người bệnh không kiểm soát được đường huyết. Có mối tương quan giữa hành vi tăng cường sức khỏe và mức đường huyết. Két luận: Hành vi tăng cường sức khỏe ở người bệnh đái tháo đường type 2 đã được thực hiện không đều đặn, trên 50 người bệnh không kiểm soát được đường huyết ở mức cho phép. Người bệnh thực hiện hành vi tăng cường sức khỏe tốt sẽ kiểm soát được đường huyết tốt hơn

Đái tháo đường typ 2 là một trong những vấn đề sức khỏe hiện nay được quan tâm vì nó ảnh hưởng tới sức khoẻ của hàng triệu người trên thế giới và cũng được xem như là một bệnh mạn tính phổ biến ở Việt Nam. Theo hiệp hội Đái Tháo Đường Quốc Tế (IFD), vào năm 2006 Việt Nam đã có 1,1 triệu người mắc Đái tháo đường typ 2, dự đoán vào năm 2015, Việt Nam sẽ có 2,1 triệu người mắc bệnh và 1,5 triệu người có nguy cơ cao [4]. Tỷ lệ người bệnh Đái tháo đường typ 2 Việt Nam mắc các biến chứng của bệnh cũng khá cao. 67,6 trong số họ có ít nhất một vấn đề về hệ thống thần kinh tự động, 53,3 có bất thường về huyết áp [6], 89 có vấn đề về tuần hoàn ngoại vi, 36,8 có tổn thương ở võng mạc [1]. Biến chứng của Đái tháo đường typ 2 tương quan tới việc không kiểm soát được đường huyết [4], [3]. Nghiên cứu trên 2347 người bệnh Đái tháo đường typ 2 ở Việt Nam tại 4 thành phố lớn cho thấy, chỉ có 23,1 trong số họ có thể kiểm soát đường huyết ở mức cho phép [2].
Để duy trì mức đường huyết ở mức cho phép, thực hiện hành vi tăng cường sức khoẻ (HVTCSK) là yếu tố quan trọng đã được khuyến cáo bởi WHO [6]. Thực hiện chế độ ăn khoẻ mạnh, tăng cường hoạt động thể chất, dùng thuốc theo đúng hướng dẫn, kiểm tra sức khoẻ định kỳ, và đo đường huyết thường xuyên là những hành vi được khuyến nghị cho người bệnh Đái tháo đường typ 2 [1,2,6,7]. Tuy nhiên, HVTCSK đã không được thực hiện đúng và thường xuyên ở người bệnh Đái tháo đường typ 2 Việt Nam. Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu đánh giá HVTCSK ở người bệnh Đái tháo đường typ 2 và ảnh hưởng tích cực của nó tới người bệnh Đái tháo đường typ 2, rất ít nghiên cứu được thực hiện ở Việt Nam. Hơn nữa, hầu hết các nghiên cứu này chỉ tập trung ở hành vi thể dục, ăn uống và theo dõi sức khoẻ ở người bệnh Đái tháo đường typ 2. Vì vậy, việc nghiên cứu đầy đủ các yếu tố của HVTCSK bao gồm: dinh dưỡng, thể chất, theo dõi sức khoẻ, quản lý stress, tín ngưỡng, mối quan hệ và mối tương quan tới tình trạng kiểm soát đường huyết sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc, can thiệp điều dưỡng để cải thiện tình trạng sức khoẻ cho người bệnh Đái tháo đường typ 2. Mục tiêu:
1.    Mô tả hành vi tăng cường sức khoẻ và tình trạng kiểm soát đường huyết ở người
bệnh đái tháo đường typ 2, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.
2. Mô tả mối tương quan giữa hành vi tăng cường sức khoẻ và mức đường huyết ở người bệnh đái tháo đường typ 2, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.
II.    ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1.    Đối tượng nghiên cứu
1.1.    Tiêu chuẩn chọn mẫu
–    Người bệnh đái tháo đường type 2, được chẩn đoán bị Đái tháo đường typ 2 (theo tiêu chuẩn phân loại của WHO, 1999) ít nhất 3 tháng
–    Có khả năng trả lời phỏng vấn
–    Được điều trị ngoại trú và có đăng ký khám định kỳ tại khoa Nội tiết – Đái tháo đường, bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.
1.2.    Tiêu chuẩn loại trừ
–    Người bệnh được chẩn đoán bị Đái tháo đường typ 2 dưới 3 tháng.
–    Có các biến chứng/bệnh đi kèm như bệnh mạch vành, cắt cụt chi, suy thận.
2.    Phương pháp nghiên cứu:
2.1.    Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.    Cỡ mẫu
Theo công thức tính cỡ mẫu của Cohen để đạt được độ mạnh của phân tích khi sử dụng test Pearson trong việc kiểm định giả thuyết về mối tương quan giữa hai biến số [3]. Dựa trên công thức, cỡ mẫu được xác định là 92 người bệnh.
2.3.    Phuong pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên có hệ thống được sử dụng trong nghiên cứu này để có được cỡ mẫu nghiên cứu đại diện cho quần thể. Tên của người bệnh được chọn ngẫu nhiên từ danh sách người bệnh đến khám ngoại trú định kỳ và đáp ứng đủ tiêu chuẩn chọn mẫu cho đến khi đạt được cỡ mẫu cần thiết.
2.4.    Tiêu chuẩn đánh giá
2.4.1.    Hành vi tăng cường sức khỏe
Là các hoạt động hàng ngày, trực tiếp hướng tới việc tăng cường sức khoẻ [5], được đo lường bằng bộ câu hỏi phát triển bởi Walker và Pender năm 1995 [10]. Bộ câu hỏi bao gồm 52 câu hỏi và được đánh giá dựa trên thang đo Liker scale 4 mức để đánh giá tần xuất thực hiện HVTCSK của cá thể: 1 điểm = không bao giờ, 2 điểm = thỉnh thoảng, 3 điểm = thường xuyên/đều đặn, 4 điểm = luôn luôn/hàng ngày. Trong đó gồm các hành vi:
Ăn uống (9 câu hỏi): bao gồm các hành vi lựa chọn, sử dụng thực phẩm cần thiết phù hợp với tình trạng sức khỏe
Thể dục (8 câu hỏi): tham gia đều đặn các hoạt động thể lực từ nhẹ, trung bình đến nặng
Theo dõi sức khỏe (9 câu hỏi): bao gồm các hành vi về trách nhiệm duy trì sức khỏe như chú ý tới sự thay đổi sức khỏe của bản thân, giáo dục sức khỏe, tìm kiếm các thông tin về bệnh tật liên quan từ các nguồn thông tin như cán bộ y tế, phương tiện thông tin khác.
Quản lý stress (9 câu hỏi): đưa ra được các nhận định và huy động các nguồn tinh thần, thể chất để quản lý những áp lực và căng thẳng có hiệu quả.
Tín ngưỡng (8 câu hỏi): gồm các hành vi chú trọng đến sự phát triển của tinh thần và đạt được thông qua sự kết nối và phát triển tâm linh.
Mối quan hệ (9 câu hỏi): sử dụng giao tiếp để đạt được sự thân mật, gần gũi hơn với người khác.
2.4.2.    Kiểm soát đường huyết:
Dựa vào test nhanh đường huyết (Fasting blood glucose) trong 3 tháng gần nhất của các đối tượng tham gia nghiên cứu. Những người có mức đường huyết trong cả 3 tháng dưới hoặc bằng 7,8 mmol/l (140 mg/dl) được xếp vào nhóm kiểm soát được đường huyết. Những người có mức đường huyết lớn hơn 7,8 mmol/l (140 mg/dl) ở ít nhất 1 tháng được

Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích

Leave a Comment