MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CHU PHẪU VÀ KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ CÁC BỆNH GAN MẬT TỤY
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CHU PHẪU VÀ KẾT QUẢ SỚM SAU MỔ CÁC BỆNH GAN MẬT TỤY
Đặng Trần Khiêm*, Lưu Ngân Tâm**, Nguyễn Tấn Cường*
TÓM TẮT :
Mục tiêu: Suy dinh dưỡng bệnh nhân sau mổ ngày càng được quan tâm do chiếm tỉ lệ cao và tương quan với kết cục sau mổ. Tuy nhiên, ý nghĩa và việc áp dụng các phương pháp tầm soát, phát hiện suy dinh dưỡng cũng như theo dõi dinh dưỡng trong thực hành lâm sàng ngoại khoa tại các bệnh viện ở nước ta thật sự vẫn còn bỏ ngỏ. Nghiên cứu này: 1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng tiền phẫu của bệnh nhân bằng các phương pháp đánh giá dinh dưỡng tổng thể chủ quan SGA (Subjective Global Assessment), BMI, xét nghiệm albumin, prealbumin máu; 2. Đánh giá một số đặc điểm dinh dưỡng hậu phẫu của bệnh nhân bằng độ sụt cân, BMI và các xét nghiệm prealbumin, CRP; 3. Xác định mối liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng tiền phẫu (theo SGA) và kết quả sớm sau mổ của những bệnh nhân được thực hiện những phẫu thuật về gan mật tụy.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, phân tích trên 209 bệnh nhân ngoại gan mật tụy. Tất cả bệnh nhân được đánh giá BMI, SGA, albumin, prealbumin, CRP/ máu trước và sau phẫu thuật. Đồng thời theo dõi chỉ định bắt đầu cho ăn qua đường miệng.
Kết quả: Độ tuổi trung bình là 49,6 ± 15,7 tuổi; 95 (45,5%) nam và 114 (54,5%) nữ. Tình trạng suy dinh dưỡng trước mổ theo BMI (<18,5 kg/m2) là 75 (35,9%) bệnh nhân; theo SGA (B và C) là 111 (53,1%) bệnh nhân với hầu hết có sụt cân trong vòng 6 tháng trước nhập viện. Bệnh nhân có nồng độ albumin/ máu thấp (<3,5g/dL) là 37 (17,9%) và prealbumin/máu thấp (<20mg/dL) là 102 (50,5%) người. Bệnh nhân có tình trạng dinh dưỡng tốt (SGA A) thì có albumin/ máu cao và prealbumin máu/ cao; dinh dưỡng kém thì albumin và prealbumin máu thấp. Thời gian bắt đầu cho ăn đường miệng trung bình là 2,2 ± 1,5 ngày. Nhóm trung phẫu có xu hướng cho ăn sớm hơn nhóm đại phẫu (p < 0,0001). Bệnh nhân suy dinh dưỡng có nguy cơ bị trì hoãn cho ăn sớm cao gấp 4,9 lần ở nhóm trung phẫu (ĐTC 1,8 – 13,5, p= 0,0004) và 1,2 lần (ĐTC 0,9 – 1,8, p=0,0004) ở nhóm đại phẫu. 179 (98,1%) bệnh nhân có sụt cân trong thời gian nằm viện, cân nặng khi ra viện thấp hơn trước khi mổ ở cả hai nhóm trung và đại phẫu (p<0,05). BMI trước mổ là 20,08 ± 3,14 kg/m2 còn khi ra viện 19,06 ± 3,19 kg/m2 (p= 0,0014). Prealbumin trung bình sau mổ là 13,03 ± 4,80 mg/dL sụt giảm rõ rệt so với prealbumin trước mổ 20,86 ± 7,98 mg/dL (p < 0,0001) và CRP sau mổ trung bình là 126,01 ± 76,54 ng/mL, giữa 2 nhóm trung phẫu và đại phẫu nồng độ CRP khác biệt không có ý nghĩa (p = 0,6570). Mặt khác, có 49 trường hợp có biến chứng chiếm 23,4%, trong đó: 15 trường hợp xì rò (7,2%); 32 trường hợp nhiễm trùng vết mổ (15,3%) và 10 trường hợp biến chứng khác (4,8%) và 1 trường hợp tử vong (0,5%). Những bệnh nhân đại phẫu có suy dinh dưỡng (theo SGA) có nguy cơ xì rò cao gấp 2,9 lần (ĐTC 0,7 – 9,5, p= 0,0255) và nguy cơ nhiễm trùng vết mổ cao gấp 3,9 lần (ĐTC 0,9 – 16,6 p = 0,3641). Thời gian nằm viện hậu phẫu trung bình 9,9 ± 5,7 ngày, ngắn nhất là 2 ngày, dài nhất 54 ngày. Ở nhóm trung phẫu sự khác biệt về thời gian nằm viện giữa nhóm suy dinh dưỡng và dinh dưỡng tốt không có ý nghĩa thống kê (p = 0,089). Ở nhóm đại phẫu thời gian nằm viện khác nhau giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001).
Kết luận: Phương pháp SGA đáng tin cậy để đánh giá tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân trước phẫu thuật và có ý nghĩa tiên lượng. Đây là một phương pháp rẻ tiền, huấn luyện dễ dàng, bác sĩ và điều dưỡng đều có thể thực hiện được nên rất khả thi trong thực tế lâm sàng.
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất