Một số chỉ tiêu hình thái người sống ở Hà Nội năm 2010
Sau 10 năm của nghiên cứu các chỉ tiêu sinh học người Việt Nam, Sở Y tế Hà Nội phối hợp với Trường Đại học Y Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh học người sống ở Hà Nội năm 2010. Những kết quả nghiên cứu bước đầu nhằm giải quyết mục tiêu: Đánh giá một số chỉ tiêu về hình thái người sống ở Hà Nội năm 2010. Nghiên cứu đã tiến hành trên 15015 người bình thường bao gồm 6917 nam (46,1%) và 8098 nữ (53,9%), từ 6 tuổi trở lên và được chia theo các lớp tuổi khác nhau, tại 2 quận Hoàn Kiếm, Đống Đa và 2 huyện Ba Vì, Mỹ Đức. Các chỉ tiêu hình thái được xác định bằng phương pháp đo nhân trắc học theo chuẩn quốc tế (do bộ môn Giải phẫu của Trường Đại học Y Hà Nội phụ trách về kỹ thuật chuyên môn). Những kết quả ban đầu cho thấy sự phát triển của một số chỉ tiêu hình thái so với những năm cuối của thế kỷ XX có thể có liên quan với sự phát triển về kinh tế – xã hội.
Điều tra cơ bản về các chỉ tiêu sinh học người Việt Nam đã được tiến hành từ những năm cuối của thập kỷ 90 của thế kỷ XX, do Trường Đại học Y Hà Nội là cơ quan chủ trì phối hợp với các viện nghiên cứu, trường đại học và các bệnh viện triển khai trong cả nước. Kết quả của nghiên cứu đã được Bộ Y tế xuất bản thành cuốn “Các giá trị sinh học người Việt Nam bình thường thập kỷ 90 – thế kỷ XX” năm 2003 [1].
Sau 10 năm đầu của thế kỷ XXI, trong điều kiện kinh tế xã hội có nhiều phát triển, một câu hỏi đặt ra là thanh niên Việt Nam nói chung và người sống ở Hà Nội nói riêng có cao hơn so với những thập kỷ trước không? Thể chất người sống ở Hà Nội có khác so với các vùng khác trong cả nước không? Để trả lời các câu hỏi này đòi hỏi cần có nghiên cứu đầy đủ hơn tiến hành ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Tuy nhiên, để chuẩn bị cho nghiên cứu tiến hành với quy mô cả nước, được sự cho phép của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội phê duyệt kế hoạch khoa học công nghệ năm 2010, Trường Đại học Y Hà Nội phối hợp với Sở y tế Hà Nội đã tiến hành nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu: Đánh giá một số chỉ tiêu hình thái người sống ở Hà Nội năm 2010.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu được tiến hành tại 4 địa điểm bao gồm:
Quận Hoàn Kiếm; quận Đống Đa; huyện Ba Vì; huyện Mỹ Đức.
Nghiên cứu nhằm xác định một số chỉ tiêu hình thái: Chiều cao đứng, chiều cao ngồi, cân nặng; vòng đầu; vòng ngực; chỉ số BMI và chỉ số Pignet.
Các kỹ thuật đo nhân trắc sử dụng cách đo nhân trắc học theo chuẩn quốc tế và do bộ môn Giải phẫu – trường Đại học Y Hà Nội chịu trách nhiệm huấn luyện, giám sát và triển khai thực hiện. Các chỉ tiêu hình thái được xác định trên đối tượng người bình thường từ 6 tuổi trở lên sống ở Hà Nội.
Cỡ mẫu được tiến hành theo công thức:
Z21-a/2 x Q
n = 7
£2 x P
được tính cho toàn bộ 4 quận huyện sau khi đã nhân với hệ số 3 để làm tăng lực mẫu ta có tổng số là 15 nghìn đối tượng bao gồm cả nam và nữ theo tỷ lệ 1:1.
III. KẾT QUẢ
Do hạn chế về thời gian và giới hạn của báo cáo chúng tôi trình bày một số kết quả bước đầu và tập trung vào lứa tuổi 20 – 24 tuổi, đây là lớp tuổi phát triển tối đa về hình thái của con người.
Tổng số đối tượng được nghiên cứu là 15015 người, bao gồm 6917 nam (46,1%) và 8018 nữ (53,9%). Nhóm người thuộc lớp tuổi 20 – 24 tuổi trong nghiên cứu có 2990 người, chiếm 19,91%, bao gồm 1377 nam (46,05%) và 1613 nữ (53,95).
Bảng 1 cho ta thấy kết quả trung bình chiều cao đứng ở lớp 20 – 24 tuổi thu được như sau: nam cao 166,97 (cm) và nữ cao 155,53 (cm) và có sự khác biệt giữa các quận huyện (p < 0,001).
Dựa vào chiều cao và cân nặng tính chỉ số khối cơ thể, kết quả thu được như sau: nam là 20,3 ± 1,91; nữ: 19,69 ± 1,67 và cũng có sự khác biệt ở các quận huyện (bảng 3).
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích