MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ, LÂM SÀNG CỦA BỆNH CHẢY MÁU NỘI SỌ Ở TRẺ NHỎ TỈNH HÀ TÂY 2000 – 2004
Bệnh chảy máu nội sọ (CMNS) ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ hay còn gọi bệnh chảy máu muộn sơ sinh là một bệnh cấp tính nặng và gặp ở nhiều nước đang phát triển. Nguyên nhân của bệnh đã được xác định là do thiếu vitamin K chủ yếu từ sữa mẹ cung cấp cho trẻ sơ sinh. Bệnh gây chảy máu não, màng não cho các trẻ từ khi sinh đến dưới 3 tháng tuổi. Chương trình tiêm vitamin K cho tất cả trẻ sơ sinh phòng bệnh chảy máu đã được thực hiện ở nhiều nước và hầu như đã ngăn ngừa được bệnh. Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu đã thông báo bệnh còn phổ biến ở nhiều địa phương, ước khoảng từ 110 – 130 trẻ /100000 trẻ sinh sống [2]. Các nghiên cứu trước đây xác định tỷ lệ mắc bệnh chỉ thực hiện ở các bệnh viện tỉnh đến trung ương, chưa cho thấy được tỷ lệ mắc thực tế ở cộng đồng, cũng như chưa phản ánh được tỷ lệ trẻ mắc bệnh trong giai đoạn sơ sinh. Còn một số yếu tố nguy cơ gây bệnh chưa được sáng tỏ như bệnh xảy ra nhiều vào các tháng cuối năm, trẻ đẻ thấp cân so với trẻ đủ cân, trẻ trai mắc nhiều hơn trẻ gái , vai trò dự phòng bằng tiêm vitamin K cho trẻ mới sinh ở nước ta?… Để góp phần làm sáng tỏ các yếu tố trên, chúng tôi thực hiện đề tài này với mục tiêu:
Mô tả một số yếu tố dịch tễ và đặc điểm lâm sàng của bệnh tại cộng đồng tỉnh Hà Tây.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng
Bao gồm: – Tất cả trẻ sơ sinh được sinh ra ở tỉnh Hà Tây từ 1/1/2000 đến 30/6 /2004.
– Các trẻ mắc bệnh chảy máu nội sọ trong số trẻ được sinh ra trong thời gian ở địa phương trên.
Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh: trẻ từ sau sinh đến < 90 ngày; Có thiếu máu cấp tính; có biểu hiện triệu chứng ở não, màng não: khóc thét hoặc khóc rên, nôn trớ, bỏ bú, thóp phồng, li bì hoặc hôn mê, co giật, triệu chứng thần kinh khu trú. Xét nghiệm có thời gian đông máu kéo dài, tỷ lệ prothrombin máu giảm, dịch não tuỷ có máu không đông, có tổn thương chảy máu trên phim scanner não. Loại trừ các bệnh CMNS do chấn thương, rối loạn mạch máu não bẩm sinh, chảy máu do giảm tiểu cầu tự phát hoặc thứ phát, hemophilia…
– Các bệnh nhi của tỉnh Hà Tây được điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung ương được nhận xét một số đặc điểm lâm sàng của bệnh.
2. Phương pháp
– Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứu: Thời gian hồi cứu từ 1/1/2000-30/5/2002, tiến cứu từ 1/6/2002 – 30/6/2004. Xử lý số liệu được dựa trên phần mềm Epi – Info 6.0
Bệnh chảy máu nội sọ (CMNS) trẻ nhỏ do thiếu vitamin K là một bệnh cấp cứu nặng và phổ biến ở nhiều địa phương Việt Nam. Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của bệnh chảy máu nội sọ ở trẻ nhỏ Hà Tây. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hồi cứu kết hợp với tiến cứu các trẻ nhỏ mắc bệnh CMNS và tất cả trẻ sơ sinh sống trong cùng thời gian ở địa phương. Kết quả: Bệnh chiếm tỷ lệ cao trước thời gian tiêm vitamin K dự phòng là 2,58‰. Nhóm tuổi hay gặp là từ 29 – 60 ngày (66,6%). Nhóm trẻ sơ sinh chiếm 16,1%. Yếu tố nguy cơ mắc bệnh dựa quần thể là trẻ trai, trẻ có cân nặng khi sinh < 2500 gam. Bệnh xảy ra không liên quan đến mùa hoặc tháng trong năm. Triệu chứng lâm sàng hay gặp nhất là biểu hiện thiếu máu cấp tính gặp 92,0%, sau đó các triệu chứng rối loạn ý thức 80,4%, thóp phồng 78,2 %; co giật 56,9%, khóc thét hoặc khóc rên 42,7%, bỏ bú 28,4%; nôn trớ 20%, sụp mi mắt 27,5%. Bệnh có tỷ lệ tử vong cao 15,7 % -18,2%. Kết luận: Bệnh CMNS ở trẻ nhỏ Hà Tây là một bệnh phổ biến, biểu hiện lâm sàng với triệu chứng thiếu máu và thần kinh nặng.
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích