MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN CHẤN THƯƠNG SỌ NÃO NẶNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
Nguyễn Thị Diệu Hiền*, Lưu Ngân Tâm**, Trần Quang Vinh*
TÓM TẮT :
Chấn thương sọ não nặng gây không ít khó khăn trong điều trị trong đó chăm sóc dinh dưỡng phù hợp với tình trạng giảm nhu động ruột dạ dày, đáp ứng với những thay đổi chuyển hóa cũng gặp nhiều trở ngại. Từ trước đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào về tình trạng dinh dưỡng, những thay đổi của nó hay các phương thức chăm sóc dinh dưỡng (dinh dưỡng qua ống thông và tĩnh mạch) như hiện nay tại khoa hồi sức chấn thương sọ não.
Mục tiêu: 1. Đánh giá sự thay đổi về tình trạng dinh dưỡng (nồng độ albumin, prealbumin máu, đường huyết) ở bệnh nhân bị chấn thương sọ não nặng; 2. Khảo sát tương quan giữa nuôi dưỡng (qua ống thông và tĩnh mạch) với những thay đổi tình trạng dinh dưỡng.
Phương pháp: Tiền cứu mô tả cắt ngang, trên 100 bệnh nhân (87 nam; 13 nữ) chấn thương sọ não với điểm Glasgow từ 3 đến 8 tại khoa Hồi sức Ngoại Thần Kinh bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Đường huyết trong ngày đầu (N1) ở mức trung bình 135,7 ± 33,6mg/dL. Nồng độ trung bình của albumin/ máu 3,8 ± 0,5 g/dL; prealbumin/máu 20,1 ± 6,2mg/dL. 35 bệnh nhân có mức đường huyết trên 140mg/dL; 33 trường hợp có albumin/ máu <3,5g/dL và 44 TH có lượng prealbumin/máu dưới 20mg/dL. Bài tiết ure/ nước tiểu/ 24 tiếng trong ngày đầu là 38,2 ± 15,0g/L. Số ngày nằm điều trị tại khoa 5,81 ± 4,06 ngày. Thay đổi nồng độ các chất/ máu trong các ngày nằm viện lần lượt là: đường huyết từ 135,7 ± 33,6mg/dL (N1) so với 127,7 ± 26,3mg/dL (N4) so với 118,5 ± 46,2 mg/dL (N8) (p<0,05); albumin/máu 3,8 ± 0,5 g/dL (N1) so với 3,6 ± 0,5g/dL (N4) so với 3,3 ± 0,3 g/dL (N8) (p<0,05); prealbumin/ máu 20,3 ± 6,2mg/dL so với 17,5 ± 4,3 mg/dL (N4) so với 15,0 ± 3,5 mg/dL (N8) (p<0,05). Có tương quan giữa tăng bài tiết ure trong ngày thứ 3 và thứ 4 nằm viện với giảm nồng độ prealbumin (pearson correlation, p<0,05) nhưng tương quan không ý nghĩa thống kê với giảm albumin. Mặt khác tất cả bệnh nhân đều được nuôi ăn như nhau: tương đương 800- 1000kcal/ngày; đạm 27- 33g; béo 30- 38g từ súp xay bệnh viện trong ngày đầu (N1) và bổ sung thêm dinh dưỡng tĩnh mạch: 600kcal/ ngày từ acid amin và nhũ dịch béo. Cân bằng nitrogen âm trong suốt thời gian điều trị và tương quan với giảm prealbumin/máu (p<0,05) nhưng không tương quan với thay đổi albumin/máu.
Kết luận: Prealbumin máu là xét nghiệm phù hợp trong theo dõi hiệu quả chăm sóc dinh dưỡng hơn là albumin/máu. Bên cạnh đó phương thức hỗ trợ dinh dưỡng (qua ống thông và qua tĩnh mạch) cho bệnh nhân đang được thực hiện thật sự là không phù hợp với tình trạng chuyển hóa của người bệnh, đặc biệt cân bằng nitơ nên được chỉ định để theo dõi trong thời gian điều trị cho nhóm bệnh nhân này. Đồng thời nên có những nghiên cứu thêm về lĩnh vực dinh dưỡng lâm sàng để qua đó có thể nâng cao chất lượng chăm sóc dinh dưỡng cho bệnh nhân.

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment