MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT TƯ THẾ KỊCH PHÁT LÀNH TÍNH

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT TƯ THẾ KỊCH PHÁT LÀNH TÍNH

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG Ở BỆNH NHÂN CHÓNG MẶT TƯ THẾ KỊCH PHÁT LÀNH TÍNH
Nguyễn Văn Quân1,, Võ Hồng Khôi2,3,4, Bùi Thị Liên2, Khúc Huyền Trang
Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ở bệnh nhân chóng mặt tư thế kịch phát lành tính (BPPV). Đối tượng nghiên cứu: 23 bệnh nhân BPPV được chẩn đoán và điều trị tại Khoa Nội Thần kinh – Bệnh viện Đa khoa Cửa Đông và Phòng Cấp cứu – Trung tâm Thần kinh Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 2/2022 đến tháng 10/2022. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 66,50±12,30 tuổi, nữ giới chiếm 78,3%, tỷ lệ bệnh nhân có những đợt tái phát trong tiền sử là 69,6%, chỉ số BMI trung bình là 22,37±1,60. Có đến 91,4% bệnh nhân BPPV là nguyên phát. Một số tiền sử và bệnh lý kèm theo thường gặp bao gồm: Rối loạn Lipid máu (60,9%), ĐTĐ týp 2 (43,5%), Tăng huyết áp (44,0%), rối loạn lo âu-trầm cảm (39,1%). Vị trí tổn thương thường gặp hơn ở bên phải (78,3%), bên trái (17,4%) và hai bên (4,3%). Đặc điểm rung giật nhãn cầu khi làm nghiệm pháp Dix-Halpike bao gồm thời gian tiềm: 3,43±1,34 giây, thời gian rung giật nhãn cầu: 9±2,71 giây. Điểm T-Score trung bình là -2,73±0,71 trong đó có đến 47,8% bệnh nhân loãng xương (T-Score: < -2,5); 43,5% bệnh nhân thưa xương (T-Score: -1 đến -2,5) và 8,7% bệnh nhân có mật độ xương bình thường (T-Score > -1). Kết luận: BPPV là một bệnh lý thường gặp đặc biệt ở nữ giới (78,3%), có 69,6% bệnh nhân đã có nhiều đợt tái phát trong tiền sử. Một số bệnh lý kèm theo thường gặp bao gồm: Tăng huyết áp, ĐTĐ, rối loạn mỡ máu, béo phì, loãng xương.

Chóng mặt tư thế kịch phát lành tính (BPPV) là  bệnh  lý  của  cơ  quan  tiền  đình  ngoại  vi  phổ biến nhất biểu hiện bằng các cơn chóng mặt xuất hiện đột ngột, liên quan đến tư thế của đầu kèm theo rung giật nhãn cầu đặc trưng. Một nghiên cứu ở châu Âu ước tính tỷ lệ mắc suốt đời của dân số là 2,4% và có khoảng 10,7 đến 64 trường hợp  mắc  mới  trên  100.000  dân  số  mỗi  năm, trong đó 86% bệnh nhân BPPV phải được tư vấn y  tế,  gián  đoạn  cuộc  sống  hàng  ngày  và  suy giảm chất lượng cuộc sống1. Các cơn chóng mặt ở  bệnh  nhân  BPPV  có  thể  tự  thoái  lui  trong khoảng 2 tuần mà không cần điều trị, tuy nhiên một số trường hợp có thể kéo dài dai dẳng; hơn nữa các nghiên cứu chỉ ra rằng chỉ có 10-20% bệnh nhân BPPV được điều trị thích hợp, phần lớn bệnh nhân còn chậm trễ trong việc tiếp cận chẩn đoán dẫn đến gia tăng các ảnh hưởng về kinh tế và sức khỏe1.Mặc dù BPPV là bệnh lý phổ biến tuy nhiên cho  đến  hiện  tại  các  vấn  đề  liên  quan  đến nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh, các yếu tố nguy cơ… vẫn chưa được hiểu biết một cách rõ ràng. Ở các bệnh nhân mắc BPPV đặc biệt các bệnh nhân cao tuổi, các cơn chóng mặt có thể gây té ngã và kèm theo các vấn đề nghiêm trọng khác như gãy xương hay chấn thương sọ não; trầm cảm và suy giảm chất lượng cuộc sống. Các cơn chóng  mặt  cấp  dai  dẳng,  tái  phát  nếu  không được  chẩn  đoán  và  điều trị  đúng  sẽ làm  tăng gánh  nặng  cho  cá  nhân, gia  đình  và  xã  hội. Ngoài  ra,  một  số  nghiên  cứu  đã  cho  thấy,  ở những bệnh nhân mắc BPPV sẽ có nguy cơ cao hơn mắc đột quỵ thiếu máu não, sa sút trí tuệ, gãy  xương2…Việc  tìm  hiểu  các  đặc  điểm  lâm sàng,  cận  lâm  sàng  ở  bệnh  nhân  BPPV  có  thể cung cấp thêm các thông tin giúp các bác sĩ chẩn đoán và điều trị sớm, hạn chế các biến cố có thể xảy  ra  trong  tương  lai.  Vì  vậy,  chúng  tôi  tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu: “Mô tả một số  đặc  điểm  lâm  sàng,  cận  lâm  sàng  ở  bệnh nhân chóng mặt tư thế kịch phát lành tính”.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment