MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH THỞ MÁY VÀ CAI MÁY TẠI KHOA SƠ SINH BỆNH VIỆN TỪ DŨ
MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ TÌNH HÌNH THỞ MÁY VÀ CAI MÁY TẠI KHOA SƠ SINH BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Phạm Việt Thanh*, Ngô Minh Xuân**, Nguyễn Văn Dũng**
Mục tiêu: Khảo sát tình hình thở máy tại Khoa Sơ Sinh Từ Dũ trong thời gian 1 năm
Thiết kế: Nghiên cứu hồi cứu: Mô tả và phân tích
Nơi thực hiện: Khoa Sơ Sinh Bệnh Viện Từ Dũ
Bệnh nhân:Từ 01/01/2007 đến 31/12/2007 có 159 trẻ sơ sinh thở máy hội đủ tiêu chuẩn nghiên cứu được đưa vào nghiên cứu
Kết quả: Những chỉ định thường gặp nhất trong thở máy sơ sinh là bệnh màng trong (50,94%), sau đó là ngạt (15,09%), hội chứng chậm hấp thu dịch phổi (9,04%),cơn ngưng thở của trẻ non tháng (7,55%) và hộichứng hít ối phân xu (4,40%). Tỉ lệ sống sót chung trong nghiên cứu là 63,52% với tỉ lệ cai máy thành công là 57,23%. Trong các bệnh thường gặp chậm hấp thu dịchphổi có tỉ lệ sống cao nhất (100%), sau đó là hội chứng hít ối phân xu (71,43%), ngạt khi sanh là 70,83%. Trẻ non tháng với bệnh màng trong và cơn ngưng thở sơ sinh có tỉ lệ sống sót thấp: 64,20 và 41,67 tương ứng. So với nhóm cai máy theo kế hoạch, nhóm cai máy không theo kế hoạch có tỉ lệ tử vong thấp (0% sv 41,13% p<0,001) và tỉ lệ cai máy thành công cao hơn (83,33% sv 53,09% p=0,04)
Kết luận: Thở máy đã cải thiện tỉ lệ sống sót ở các trẻ sơ sinh có bệnh lý nặng đặc biệt là các trẻ đủ tháng. Tỉ lệ tử vong vẫn còn cao ở các trẻ non và cực non tháng. Chỉ định thở máy đúng lúc và chăm sóc vô khuẩn là những yếu tố cơ bản để thành công. Trong thời gian tới cần áp dụng các mode thở mới cũng nhưng các phương pháp cai máy mới để giảm hơn nữa tỉ lệ tử vong ở các trẻ non và cực non tháng
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất