NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHÃN ÁP LÊN SỰ TIẾN TRIỂN BỆNH GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT ĐÃ ĐIỀU TRỊ

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA NHÃN ÁP LÊN SỰ TIẾN TRIỂN BỆNH GLÔCÔM GÓC MỞ NGUYÊN PHÁT ĐÃ ĐIỀU TRỊ

 Nghiên cứu mô tả, hồi cứu cắt ngang 447 mắt (265 bệnh nhân – BN) glôcôm góc mở nguyên phát được chia làm 3 nhóm. Nhóm 1: mắt có nguy cơ cao mất chức năng thị giác (CNTG); nhóm 2: mắt ó nguy cơ trung bình mất CNTG; nhóm 3: mắt nghi ngờ glôcôm với nguy cơ trung bình mất CNTG.

Kết quả: sau điều trị,  61,1% mắt đ ạt mức nhãn áp (NA) 17  –  21 mmHg; 20,6% có NA < 17 mmHg, 18,3% mắt có NA > 21 mmHg .  2,1%  mắt tiếp  tục tiến triển  bệnh  ở những mắt  có NA < 17 mmHg, thấp hơn so với mắt có NA >   21 mmHg. Tỷ  lệ mắt đạt NA đích điều trị trong nhóm 1 là  62,8%, 
nhóm 2: 69,7%, nhóm 3: 68,1%. Tỷ lệ mắt bệnh tiến triển nặng lên ở những mắt đạt NA đích  trong 
nhóm 1  là 20,7%, nhóm 2: 22,5%, nhóm 3: 15,7%, thấp hơn so với những mắt NA không đạt đích. 
Tỷ lệ bệnh tiến triển tiếp tục ở những mắt có di động  NA giữa các lần khám < 1  mmHg là 2,7%, 
di động NA từ 1 – 2 mmHg: 13,7% và di động NA đến 6 mmHg: 83,7%. Glôcôm góc mở là bệnh lý tiến triển mạn tính của thị thần kinh. Trong các yếu tố gây tổn hại chức năng và thực thể của mắt glôcôm, cho đến nay, NA là yếu tố duy nhất có thể tác động được bằng thuốc, laser hoặc phẫu thuật. Tất cả các phương pháp điều trị đều nhằm hạ NA xuống mức  không tiếp tục làm tổn hại đĩa thị giác và thị trường.Mức NA đó được gọi là NA đích. Tuy nhiên, không có một mức NA đích nào chung cho tất cả BN glôcôm, mà NA đích được xác lập dựa vào nhiều yếu tố như NA ban đầu, giai đoạn bệnh, mức độ tiến triển của bệnh, ngoài ra nó còn bị chi phối bởi các yếu tố 
nguy cơ khác, kỳ vọng sống của BN. Đối với mỗi BN, NA đích được cụ thể hoá khác nhau và phải có một chiến lược điều trị để đạt được mức NA này

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment