NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT LÂN HỮU CƠ VÀ CACBAMAT LÊN SỨC KHOẺ NÔNG DÂN TRỒNG LÚA Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA SỬ DỤNG THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT LÂN HỮU CƠ VÀ CACBAMAT LÊN SỨC KHOẺ NÔNG DÂN TRỒNG LÚA Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

 Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là điều kiện tất yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chính nhờ vào hiệu quả diệt trừ sâu bệnh và cỏ dại của thuốc bảo vệ thực vật, trong nhiều năm qua sản lượng lương thực, đặc biệt là lúa gạo, ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, ngày càng gia tăng. Tuy nhiên mặt trái của việc sử dụng bảo vệ thực vật như gây ô nhiễm môi trường sống, tồn dư thuốc bảo vệ thực vật trong cây trồng, gây nhiễm độc cấp và mãn tính cho người sử dụng….Trong đó, tình trạng nhiễm độc cấp và mãn tính cho người trực tiếp phun thuốc bảo vệ thực vật trong cộng đồng là điều gây lo lắng nhất. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật luôn là vấn đề hàng đầu trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng dân cư nông nghiệp. Trên thế giới ước tính có khoảng 39 triệu người có thể bị ngộ độc mãn và cấp tính hàng năm do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong nông nghiệp. Trong đó có khoảng 3 triệu người bị ngộ độc cấp tính nghiêm trọng và 220 nghìn người tử vong mỗi năm [1]. Song song với số lượng thuốc bảo vệ thực vật sử dụng tăng là số người ngộ độc thuốc bảo vệ thực vật cũng tăng.

Tình trạng nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật tại Việt Nam vẫn còn nghiêm trọng. Thống kê sơ bộ tại 38 tỉnh, thành phố, trong năm 2007 đã xảy ra gần 4.700 vụ, với 5.207 trường hợp bị nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật và 106 người đã tử vong. Năm 2009 có 4.372 vụ nhiễm độc với 4.515 trường hợp, tử vong 138 trường hợp chiếm tỷ lệ 3,05 %. Theo Hà Minh Trung và cộng sự, cả nước hiện có 11,5  triệu hộ nông nghiệp, số người tiếp xúc nghề nghiệp với thuốc bảo vệ thực vật ít nhất cũng tới 11,5 triệu người. Với tỷ lệ nhiễm độc thuốc bảo vệ thực vật mạn tính là 18,26 % thì số người bị nhiễm độc mạn tính trong cả nước có thể lên tới 2,1 triệu người [2]. 
Mặt khác, theo Chi cục bảo vệ thực vật tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện nay ở tỉnh Thừa Thiên Huế, trên 90% loại thuốc trừ sâu được nông dân sử dụng thuộc nhóm photpho hữu cơ và cacbamat [3]. Song, do người nông dân chưa coi trọng việc sử dụng phương tiện bảo hộ lao động khi phun thuốc và ít hiểu biết về thuốc trừ sâu đã khiến không ít trường hợp nông dân trực tiếp phun thuốc bị nhiễm độc mãn tính mà họ không hay biết [4]. Điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của nông dân trực tiếp sản xuất ra lương thực cho chúng ta tiêu dùng. Đây là vấn về đang quan tâm của Đảng và Nhà nước (nông nghiệp, nông thôn và nông dân). Trong đề tài này chúng tôi muốn tìm hiểu thực trạng sử dụng, bảo quản, điều kiện lao động khi phun/pha thuốc trừ sâu và ảnh hưởng của thuốc trừ sâu lên sức khoẻ nông dân, từ đó đề xuất một số giải pháp phòng ngừa nhằm khắc phục những hậu quả xấu lên sức khoẻ của nông dân. Mục tiêu:
1. Mô tả điều kiện lao động với thuốc trừ sâu của nông dân trồng lúa ở tỉnh Thừa Thiên Huế 
2. Xác định nồng độ cholinesterase trong máu và những yếu tố liên quan ở nông dân trực tiếp phun thuốc trừ sâu tại địa bàn nghiên cứu.
 

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment