Nghiên cứu áp dụng phương pháp INSURE trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai

Nghiên cứu áp dụng phương pháp INSURE trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai

Nghiên cứu áp dụng phương pháp INSURE trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai.Hội chứng suy hô hấp (Respiratory distress syndrome –RDS) hay còn gọi là bệnh màng trong (Hyaline membrane disease –HMD), là hội chứng cấp cứu thường xảy ra sau khi đẻ ở trẻ đẻ non do phổi chưa trưởng thành, trẻ càng non tỷ lệ bệnh càng cao. Nhìn chung khoảng 60% trẻ đẻ non có tuổi thai dưới 30 tuần bị suy hô hấp . Năm 1959 Avery và Mead đã khám phá ra RDS xảy ra do thiếu hụt surfactant của phổi , chất có vai trò làm giảm sức căng bề mặt phế nang, ngăn cản phế nang xẹp vào cuối kỳ thở ra. 


Bệnh thường xuất hiện sớm sau đẻ với biểu hiện suy hô hấp ở các mức độ khác nhau, tổn thương trên phim chụp X quang phổi thẳng giúp chúng ta chẩn đoán xác định và phân loại bệnh màng trong thành 4 giai đoạn. Bệnh thường tiến triển nặng dần lên trong vòng 24h có thể tử vong nếu không điều trị kịp thời .
Hiện nay cùng với sự phát triển của hồi sức sơ sinh đã có nhiều phương pháp điều trị suy hô hấp sơ sinh non tháng, việc đảm bảo thông khí và cung cấp oxy cho trẻ là quan trọng, song song với các biện pháp hỗ trợ oxy như thở CPAP (Continuous Positive Airway Pressure), thông khí nhân tạo thì liệu pháp thay thế Surfactant đã được Fujiwara điều trị thành công bằng surfactant từ phổi bò . Từ đó đã có nhiều nghiên cứu ra nhiều chủng loại surfactant tự nhiên cũng như tổng hợp đều có tính an toàn và hiệu quả cao. INSURE (INtubation-SURfactant-Extubation:Đặt nội khí quản – bơm surfactant- rút nội khí quản) là một phương pháp trong điều trị suy hô hấp ở trẻ đẻ non, đã được thực hiện thành công trên thế giới và trong nước. Khuynh 3 hướng điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ non tháng hiện nay đang nghiêng về hạn chế thở máy. Ý tưởng này xuất hiện từ Đan Mạch nơi kết hợp cả việc bơm Surfactant sớm tại phòng sinh và sớm ổn định bằng nCPAP (nasalContinuous Positive Airway Pressure), giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do bệnh lý suy hô hấp ở trẻ sơ sinh đẻ non, giảm tỷ lệ thở máy cũng như giảm nguy cơ tổn thương phổi, hậu quả là bệnh loạn sản phế quản phổi tiến triển, biến chứng này xảy ra 20% trẻ bị RDS còn sống .
Với sự phát triển của y học, việc hình thành mối liên hệ mật thiết giữa sản và nhi khoa. Khoa nhi bệnh viện Bạch Mai tiếp nhận trẻ sơ sinh của sản phụ có những yếu tố nguy cơ như: tiền sử có thai lần trước cũng suy hô hấp sơ sinh, đa thai, mổ đẻ, tiền sản giật, bệnh lý nội khoa… thì tỷ lệ đẻ non rất cao và sơ sinh sau đẻ của những sản phụ này có nguy cơ suy hô hấp rất cao và
nhiều khi là suy hô hấp nặng nếu không được quản lý, phát hiện và điều trị kịp thời .
Tại khoa nhi bệnh viện Bạch Mai phương pháp INSURE đã và đang được tiến hành nhưng chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về vấn đề này.
 Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu áp dụng phương pháp INSURE trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non tại khoa Nhi bệnh viện Bạch Mai
Với mục 2 tiêu:
1. Xây dựng quy trình và áp dụng điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non bằng phương pháp INSURE.
2. Nhận xét hiệu quả điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non bằng phương pháp INSURE.
Với kết quả thu được từ nghiên cứu sẽ góp phần trong việc đưa ra các giải pháp trong điều trị hội chứng suy hô hấp ở trẻ đẻ non, góp phần cải thiện hiệu quả điều trị cho trẻ sinh non.

Nguồn: https://luanvanyhoc.com

Leave a Comment