NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ VÀ BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG GIẢI PHÓNG IN VITRO CỦA NHŨ TƯƠNG NANO NHỎ MẮT DICLOFENAC

NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ VÀ BƯỚC ĐẦU ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG GIẢI PHÓNG IN VITRO CỦA NHŨ TƯƠNG NANO NHỎ MẮT DICLOFENAC

 Nhũ tương nano nhỏ mắt chứa axít diclofenic hoặc natri diclofenac được bào chế từ một hỗn hợp gồm pha dầu, pha nước, chất diện hoạt, chất đồng diện hoạt, chất tăng thấm và hệ đệm. Ảnh hưởng của các thành phần trong nhũ tương nano đến giải phóng dược chất  in vitro đã đánh giá sử dụng thiết kế thí nghiệm cổ điển và mạng thần kinh nhân tạo. Theo mô hình thiết kế thí nghiệm, đã được bào chế 22 mẫu nhũ tương nano. Lựa chọn loại và lượng các thành phần trong công thức nhũ tương nano được là biến độc lập. Tỷ lệ % dược chất giải phóng tại các thời điểm 1, 2, 3, 4, 5 và 6 giờ lựa chọn là biến phụ thuộc.  Sự thay đổi tỷ lệ pha dầu và các chất diện hoạt ảnh hưởng có ý nghĩa thống kê đến giải phóng dược chất từ nhũ tương nano. Nhũ tương nano chứa axít diclofenic có kích thước tiểu phân lớn hơn và phân bố trong khoảng rộng hơn nhũ tương nano chứa natri diclofenac.

Nghiên cứu hệ cung cấp thuốc tại mắt là một trong những lĩnh vực quan trọng của các nhà bào chế. Các chế phẩm thuốc nhỏ mắt hiện có trên thị trường thường có sinh khả dụng thấp và hiệu quả điều trị chưa cao. Vì vậy, để có hiệu quả trong điều trị, người bệnh phải nhỏ một liều thuốc lớn hoặc phải nhỏ nhiều lần mỗi ngày [1, 2, 4, 7]. 
 
Diclofenac là dẫn chất của axít phenylacetic thuộc nhóm thuốc chống viêm không steroid, có khả năng ức chế chọn lọc COX – 2 hơn COX – 1, có tác dụng chống viêm, giảm đau và hạ sốt. Diclofenac để nhỏ mắt trên thị trường mới chỉ có ở dạng dung dịch với nồng độ 0,1%. Thuốc tác dụng rất ngắn, đạt nồng độ đỉnh trong điều trị khoảng 30 phút sau khi nhỏ và bị thải trừ hoàn toàn ra khỏi cơ thể trong1 giờ. Vì vậy, bệnh nhân (BN) phải nhỏ thuốc ít nhất 3 – 5 lần trong ngày [1].

 

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất

Leave a Comment