NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỔI MỘT SỐ CHỈ SỐ HÌNH THÁI VÀ HUYẾT ĐỘNG TĨNH MẠCH ĐẦU ĐƯỜNG THÔNG ĐỘNG TĨNH MẠCH Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN TÍNH CHẠY THẬN NHÂN TẠO CHU KỲ
Nghiên cứu biến đổi một số chỉ số hình thái và huyết động tĩnh mạch (TM) đầu đường thông động TM bằng siêu âm Doppler mạch ở 62 bệnh nhân (BN) suy thận mạn tính (STMT) do viêm cầu thận mạn và viêm thận bể thận mạn điều trị bằng thận nhân tạo chu kỳ. Kết quả cho thấy: độ dày thành TM đầu ở bên tạo lỗ thông dày hơn bên tay không tạo lỗ thông, có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 (0,64 ± 0,23 mm so với 0,29 ± 0,12 mm), lòng TM đầu cũng rộng hơn bên tay không tạo lỗ thông có ý nghĩa với p < 0,01, (3,79 ± 1,32 mm so với 1,96 ± 0,44 mm). 72,6% BN có vữa xơ TM đầu đường thông động TM. Nhóm BN có vữa xơ TM đầu, diện tích lỗ thông và đường kính lòng mạch bé hơn nhóm BN không có xơ, ngược lại, độ dày thành TM đầu nhóm có vữa xơ dày hơn nhóm không có vữa xơ, vận tốc tâm thu, tâm trương, chỉ số sức cản nhóm BN vữa xơ cao hơn nhóm không vữa xơ, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Lọc máu bằng thận nhân tạo chu kỳ là một trong những phương pháp điều trị thay thế thận suy thông dụng nhất trong trường hợp suy thận giai đoạn cuối. Để đảm bảo chất lượng cuộc lọc máu, tiện lợi trong quá trình thao tác kỹ thuật, BN STMT giai đoạn cuối điều trị bằng thận nhân tạo chu kỳ, phải được tạo một đường thông động TM. Sau khi tạo đường thông, TM nối đường thông sẽ có thay đổi về hình thái và chức năng. Siêu âm Doppler mạch là một kỹ thuật không xâm nhập được sử dụng rộng rãi để nghiên cứu biến đổi về hình thái và chức năng đường thông mạch máu. Đã có nhiều nghiên cứu sử dụng siêu âm Doppler để đánh giá biến đổi hình thái của đường thông động TM. Tuy nhiên, ở Việt nam, chưa có công trình nào nghiên cứu về biến đổi hình thái và huyết động đường thông động TM
Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn, cũng như mở ra con đường nghiên cứu, tiếp cận được luồng thông tin hữu ích và chính xác nhất