NGHIÊN CỨU BIỂU HIỆN P16 TRONG UNG THƯ CỔ TỬ CUNG
NGHIÊN CỨU BIỂU HIỆN P16 TRONG UNG THƯ CỔ TỬ CUNG
Dương Thanh Tú1, Thái Anh Tú2, Trương Thị Ngọc Hân3 114-121
Mục tiêu: Khảo sát sự biểu hiện kiểu hình miễn dịch của dấu ấn p16 ở các tuýp mô bệnh
học ung thư cổ tử cung và mối liên quan giữa mức độ biểu hiện p16 với các đặc điểm giải phẫu bệnh của loại ung thư này.
Đối tượng, phương pháp: Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Đối tượng nghiên cứu gồm 107 trường hợp được chẩn đoán ung thư cổ tử cung tại Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh từ tháng 1/2021 đến tháng 12/2021.
Kết quả: Trong 107 trường hợp khảo sát, độ tuổi mắc bệnh từ 24 đến 80 tuổi, tuổi trung bình 51,3 ± 11 tuổi. Tỷ lệ carcinôm tế bào gai, carcinôm tuyến, carcinôm gai tuyến, carcinôm thần kinh nội tiết, loại khác lần lượt là 69,2%, 21,5%, 4,7%, 4,7%, 0%. Tỷ lệ carcinôm tế bào gai, carcinôm tuyến, carcinôm gai tuyến, carcinôm thần kinh nội tiết biểu hiện dương tính mạnh, lan tỏa với p16 lần lượt là 91,9%, 82,6%, 100%, 60%. Kiểu hình miễn dịch p16 không liên quan với độ tuổi, độ biệt hóa, tình trạng xâm nhập mạch máu, mạch bạch huyết và di căn hạch.
Kết luận: p16 dương tính mạnh, lan tỏa chiếm tỷ lệ cao trong ung thư cổ tử cung. p16 nên được thực hiện ở tất cả các trường hợp carcinôm tế bào gai và các trường hợp cần thiết carcinôm tuyến cổ tử cung. Carcinôm cổ tử cung nên được phân loại liên quan HPV (p16 dương mạnh, lan tỏa) hay không liên quan HPV (p16 âm tính hoặc dương yếu, khu trú) theo WHO 2020.
Theo ước tính được công bố bởi GLOBOCAN, trên thế giới có khoảng 604.127 trường hợp ung thư cổ tử cung và 341.831 trường hợp tử vong do căn bệnh này trong năm 2020. Hiện nay nhờ các chương trình tiêm phòng vắc xin, sàng lọc ung thư, tỷ lệ ung thư cổ tử cung đã giảm đáng kể nhưng vẫn còn ở mức cao. Hầu hết các carcinôm tế bào gai ở cổ tử cung đều liên quan với HPV. Carcinôm tế bào gai liên quan đến HPV và không liên quan HPV không thể được phân
biệt một cách đáng tin cậy dựa trên cơ sở hình thái học đơn thuần. Do đó, nhuộm miễn dịch p16 và / hoặc xét nghiệm HPV được coi
là tiêu chí thiết yếu, bắt buộc để phân loại. Khác với carcinôm tế bào gai, carcinôm tuyến liên quan đến HPV và không phụ thuộc vào HPV ở cổ tử cung có thể được phân biệt dựa trên hình thái đơn thuần. P16 và / hoặc xét nghiệm HPV cần được thực hiện khi các đặc điểm hình thái không cho phép phân biệt chính xác. P16 không chỉ là dấu ấn đại diện của nhiễm HPV mà còn là một gen ức chế khối u, điều chỉnh chu kỳ tế bào bằng cách ức chế đặc biệt hoạt động của cyclin D/CDK4/6. Biểu hiện P16 cho thấy nhiễm HPV nguy cơ cao (HR-HPV) và tích hợp bộ gen của virut với bộ gen của vật chủ.
Theo WHO đánh giá biểu hiện p16 được xem là một xét nghiệm đáng tin cậy để chỉ điểm cũng như đưa ra chiến lược điều trị phù
hợp cho carcinôm cổ tử cung trong tương lai. Carcinôm cổ tử cung liên quan HPV (có p16 dương tính mạnh, lan tỏa) tiên lượng tốt hơn carcinôm cổ tử cung không liên quan HPV (p16 âm hoặc dương tính yếu khu trú) [3].
Do đó chúng tôi chúng tôi tiến hành “Nghiên cứu biểu hiện của p16 trong ung thư cổ tử cung” trên một bộ phận dân số Việt Nam với
mục tiêu: (1) Khảo sát sự biểu hiện kiểu hình miễn dịch của dấu ấn p16 ở các tuýp mô bệnh học ung thư cổ tử cung và (2) mối liên quan giữa mức độ biểu hiện p16 với các đặc điểm giải phẫu bệnh của loại ung thư này