Nghiên cứu chẩn đoán trước sinh hội chứng Turner
Mục tiêu: Chẩn đoán trước sinh hội chứng Turner (TS) bằng phương pháp phân tích nhiễm sắc thể (NST) và phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang (FISH) từ tế bào ối.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 30 thai phụ tuổi thai 14 – 22 tuần có nguy cơ cao sinh con TS dựa trên kết quả sàng lọc của siêu âm và triple test được chọc hút 15 ml dịch ối để thực hiện FISH trên nhân tế bào gian kỳ và nuôi cấy, phân tích NST ở kỳ giữa.
Kết quả: * Kết quả FISH phù hợp với kết quả phân tích NST:
– 12/30 mẫu có kết quả hội chứng Turner – 5/30 mẫu có kết quả nữ bình thường
– 4/30 mẫu có kết quả hội chứng Down – 4/30 mẫu có kết quả nam bình thường
– 5/30 mẫu có kết quả hội chứng Edward
* 11/12 thai TS trên siêu âm có nang bạch huyết (NBH), kích thước nang lớn (trung bình 20,45mm), 9/11 NBH có vách ngăn.
* 12/12 thai TS đều có ít nhất 1 chỉ số vượt ngưỡng sàng lọc AFP < 0,7 MoM, HCG > 2 MoM, uE3
< 0,7 MoM. ^ ^
Kết luận: – Kết quả phân tích NST băng G và FISH đều là tiêu chuẩn để chẩn đoán xác định thai TS. – Dấu hiệu đặc trưng nhất của thai TS trên siêu âm là NBH kích thước lớn, có vách ngăn. – Có thể áp dụng ngưỡng AFP < 0,7 MoM, HCG > 2 MoM, uE3 < 0,7 MoM để sàng lọc thai TS, trong đó chỉ số HCG tăng cao đặc hiệu với thai TS hơn cả.
Từ viết tắt: TS: hội chứng Turner, NBH: nang bạch huyết, NST: nhiễm sắc thể, FISH: lai tại chỗ huỳnh quang.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hội chứng Turner (TS) được miêu tả lần đầu năm 1938, là dạng bất thường nhiễm sắc thể (NST) giới tính phổ biến nhất. Trong bảng phân loại bệnh tật của Tổ chức Y tế thế giới, TS được xếp ở chương các bệnh tật do rối loạn nhiễm sắc thể ký hiệu là Q96. Nguyên nhân gây ra TS chủ yếu do bộ NST của cơ thể thiếu 1 NST giới tính (45,X) chiếm 80-90%, phần còn lại là do đột biến mất đoạn NST X hoặc NST Y [10].
Tần số TS vào khoảng 1/1500 – 1/3000 trẻ sơ sinh gái. Tuy nhiên trong giai đoạn thai tỷ lệ
TS cao hơn rất nhiều, chỉ riêng thai 45,X chiếm tới 3% thai nữ [3],[4].
Người bị TS có các bất thường về hình thái và các rối loạn chức năng như lùn, biến dạng xương, suy giảm chức năng buồng trứng, giới tính thứ cấp không phát triển, vô kinh, vô sinh nguyên phát. Ngoài ra,TS có thể kèm các dị tật nội quan như tim, thận gây tử vong sớm của một số lớn các bệnh nhân TS. Ngay từ giai đoạn thai, trên siêu âm đã có thể phát hiện một số bất thường hình thái của thai TS như nang bạch huyết, phù thai, dị tật tim, thận, thai chậm phát triển, ngắn
xương chi… Những rối loạn về chức năng của TS ảnh hưởng tới một số hormon và protein của quá trình thai nghén như HCG, uE3, AFP…Các dấu hiệu trên siêu âm và biến đối sinh hoá của một số chất trong huyết thanh mẹ được dùng để sàng lọc phát hiện thai TS [5],[10].
Trên thế giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về các biểu hiện lâm sàng, khả năng điều trị cũng như các xét nghiệm di truyền tế bào, di truyền phân tử của TS. Từ đó đã xây dựng được các phương pháp chẩn đoán, điều trị và phát hiện TS từ giai đoạn phôi thai một cách hiệu quả. Trước đây, phân tích NST kỳ giữa bằng băng G vẫn được coi là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định TS. Những năm gần đây, với sự phát triển của sinh học phân tử đã xác định được các gen gây ra các biến đổi lâm sàng của TS, là cơ sở để tạo ra các ADN dò và ADN mồi với các trình tự đặc hiệu. Vì vậy, hiện nay không chỉ dựa trên phân tích NST, kỹ thuật FISH và PCR cũng được sử dụng để chẩn đoán xác định thai TS. Kỹ thuật FISH có thể thực hiện ngay trên nhân tế bào gian kỳ do đó cho kết quả nhanh sau 48-72h, với các đầu dò đặc hiệu, có thể phát hiện những rối loạn cấu trúc nhỏ của NST với độ phân giải của băng G không phát hiện được. Vì vậy FISH có giá trị lớn trong chẩn đoán trước sinh [3],[4],[7].
Ở Việt Nam, việc chẩn đoán và điều trị bệnh nhân TS vẫn còn nhiều bất cập [1]. Các bệnh nhân thường được phát hiện ở giai đoạn muộn sau dậy thì càng làm cho hậu quả của TS nặng nề hơn. Hiện nay, chẩn đoán trước sinh ở Việt Nam chủ yếu chỉ dựa vào phân tích NST từ tế bào ối nuôi cấy. Do đó chúng tôi tiến hành đề tài “Nghiên cứu chẩn đoán trước sinh hội chứng Turner” với mong muốn góp phần chẩn đoán thai TS ở những sản phụ có các dấu hiệu nghi ngờ sinh con TS, từ đó đánh giá giá trị của các kỹ thuật FISH và phân tích NST trong chẩn đoán TS.
Mục tiêu nghiên cứu:
“Chẩn đoán trước sinh hôi chứng Turner bằng phương pháp phân tích nhiễm sắc thể và phương pháp lai tại chỗ huỳnh quang từ tế bào ối”
Thông tin này hy vọng sẽ gợi mở cho các bạn hướng tìm kiếm và nghiên cứu hữu ích